DỰ
ÁN CẤP NƯỚC
TIỂU
BANG CALIFORNIA (California
- State Water Project) Bài
của Phan
Như Diệp Lời
giới thiệu:Nước
là nhu cầu tất yếu trong cuộc sống.
Nhiều người dùng nước
như một thói quen mà không hề
quan tâm về việc nước từ
đâu mà ra. Tại miền nam California,
trung bình 75% nước trong hệ thống
nước các thành phố được
bơm từ lòng đất sâu (cả
ngàn bộ), 25% còn lại được
"nhập cảng" từ xa. Tại quận Cam,
nước trong lòng đất được
quản trị rất kỹ bởi Thủy
Cục Quận Cam. Cho dù sự quản trị
có tốt đến đâu, thì
nguồn nước nầy bao giờ
cũng có giới hạn; và vì
dân số càng ngày càng tăng,
tỷ lệ lượng nước bơm
từ lòng đất sẽ càng
ngày càng giảm. Và như vậy nhu
cầu nhập cảng nước càng
ngày càng trở nên cấp thiết.
"Dự Án Cấp Nước Tiểu
Bang" (State Water Project) là một nguồn nước
quan trọng nhất trong những nguồn nước
nhập cảng hiện nay ở miền nam California. Ngay
khi sử dụng một cách thật tiết
kiệm, với số dân trên 25 triệu
và với tốc độ gia tăng
mỗi ngày một nhanh, nhu cầu nưóc
uống cho người dân California
thật là lớn. Hơn hai phần ba
cư dân đang sử dụng toàn bộ
hay một phần nước uống từ
"Dự Án Cấp Nước Tiểu
Bang" nầy. Dự án còn cung cấp
nước tưới cho hàng trăm
ngàn mẫu ruộng vườn vốn
saün đã rất mầu mỡ suốt
từ bắc vô nam. *
Lịch sử dẫn thủy nhập điền
cuả Tiểu bang: Đã
từ lâu, nhu cầu vận tải nước
từ những nơi mưa nhiều về
những miền có nhu cầu lớn
vẫn là ưu tư của chính quyền
và các cơ quan trách nhiệm. Tại
California, có nhiều nơi (ở miền
nam) mực nước mưa có khi chỉ
đến 2" mỗi năm; trong khi ở
những nơi khác (miền bắc) thì
có thể đến cả 100" hay hơn.
Vì thế người dân Cali luôn
luôn phải trực diện với vấn
đề một cách nghiêm trọng: "Kiểm
soát và Vận Tải - Phân Phối"
nước. Cư dân California gốc Tây
ban nha là những người đầu
tiên đã có nhiều công phu
trong việc trị thủy. Hiện những
di tích đê điều, kinh rạch còn
lại rất nhiều ở khắp nơi. Cuộc
săn vàng thế kỷ 19 đã mở
ra một kỹ nguyên mới cho nhu cầu
nước. Đặc biệt các mỏ
vàng đã sử dụng những
lượng nước lớn lao để
lọc vàng từ trong sỏi đất. Đầu
thế kỷ 20, nhiều thành phố, như
Los Angeles, San Francisco,... đã liên tục
xây dựng nhiều con kinh lớn để
dẫn nước từ Sierra Nevada
và sông Colorado. Nông nghiệp ở
California cũng giữ một vai trò quan
trọng trong việc tiêu thụ những lượng
nước nhập cảng nầy. Dự
Án Cấp Nước Tiểu Bang, xây
cất và quản trị bởi "Thủy
Cục Tiểu Bang" (Metropolitan Water District - MWD),
đã là một gạch nối rất
quan trọng trong quá trình phát triển
lâu dài của ngành thủy điện
California. Đây là một công trình
thủy lợi lớn nhất Hoa kỳ,
và cũng được sắp vào
hạng nhất nhì trên thế giới.
Ngoài mục tiêu cung cấp nước,
dĩ nhiên dự án còn đạt
những thành quả to lớn khác:
Kiểm soát nước lũ, thủy
điện, phương tiện giải trí,
và khuyến khích phát triển môi
sinh, cá và các loại sinh vật thiên
nhiên. *
Khai sinh dự án: Những
năm hạn hán dữ dội bắt
đầu 1928 đã thúc bách các
cơ quan lập pháp thông qua bộ luật
"State Central Valley Act", 1933. Dầu vậy, lúc
đó Tiểu bang vẫn chưa có đủ
kinh phí tài trợ. Và hầu hết
những công trình phát triển lúc
bấy giờ đã do một cơ quan
khác, "Federal Central Valley Project" (CVP), thực
hiện, mà buổi đầu là cung cấp
nước cho quận Contra Costa, vào
năm 1940. CVP cũng đã cung cấp nước
uống và canh tác cho các vùng Sacramento
và thung lũng San Joaquin. Năm
1951, Quốc hội Tiểu bang đã chấp
thuận một dự án mà nay gọi
là "Dự Án Cấp Nước
Tiểu Bang". Năm 1960, dân chúng Tiểu
bang thông qua một ngân sách 1.75 tỷ
Mỹ kim để bắt đầu xây
các đập nước, trạm bơm,
và các kinh dẫn. *
Sơ lược công trình: Những
công trình căn bản của dự
án, hoàn tất vào năm 1973, gồm
có 18 hồ chứa, 17 trạm bơm, 8
nhà máy thủy điện, và 550 dặm
kinh. Nước từ các vùng
cung cấp rộng lớn của sông Feather
và vùng Delta sông Sacramento - San Joaquin
được giữ lại, và chuyển
đến những vùng có nhu cầu
lớn ở vịnh San Francisco, thung lũng
San Joaquin, và nhất là Nam California. Một
phần dự án đã bắt đầu
hoạt động từ năm 1962. Những
công ty cấp thủy địa phương
khắp Tiểu bang đã ký khế
ước để dự trùmua
lại khoảng 4.23 triệu acre-feet (AF) mỗi
năm - 1 AF = 43,560 cubic feet (CF); 1 CF = 7.48 Gallons
(Gal) - (Tương đương 5.15 tỷ mét
khối mỗi năm). Những công trình
bổ sung đang được tiến hành
để gia tăng mức sản xuất.
Nhiều công trình khác cũng đã
được chấp thuận: Nhánh Duyên
hải (Coastal Branch) để cung cấp cho
các quận San Louis Opispo và Santa Barbara,
các công trình để chuyên chở
nước vượt qua vùng Delta, San
Francisco, và để thoát nước
mặn, phục hoá những vùng đồng
bằng San Joaquin. *
Hành trình nước: Dự
án bắt đầu từ ba hồ
nước nhỏ ở thượng
lưu sông Feather, quận Plumas: Hồ Davis,
hồ Frenchman, và hồ Antelope. Ngoài
việc làm tăng thêm lượng cá
thiên nhiên và phương tiện giải
trí, dự án đã góp phần
phát triển môi sinh ở những
vùng phía dưới thung lũng, khi
chảy vào sông Feather. Những
chi nhánh của sông Feather chảy vào
hồ Oroville, hồ nước chính
của dự án, có dung lượng
3.5 triệu AF. Từ hồ Oroville, nước
chảy qua ba nhà máy thủy điện,
rồi vào vùng Feather, những nhánh
sông Sacramento, trước khi vào Delta. Từ
những vùng ở miền bắc
Delta, kinh
North Bay, hoàn tất vào năm
1987, dẫn nước vào những
quận Napa và Solano. Ở gần
Byron trong vùng nam Delta, nhà máy bơm
Harvey O. Banks Delta đưa nước lên
hồ Bethany. Từ hồ nhỏ nầy,
một phần nước cuả vùng
Delta đước nhà máy bơm
South Bay đưa vào kinh South Bay, để
cung cấp cho các quận Alameda và Santa
Clara. *
Kinh California: Hầu
hết nước từ hồ Bethany
chảy vào kinh Governor Edmund G. Brown, chạy
dọc theo phía tây thung lũng San Joaquin, đến
hồ San Luis. Hồ nầy có sức
chứa 2.04 triệu AF, và được
"Phòng Tái Tạo Nước Liên
Bang" cùng sở hữu. Hồ được
xây cất bởi Phòng nầy, và
được quản trị bởi Thủy
cục Tiểu bang. Kinh
tiếp tục chạy xuống phía nam thung lũng
và rồi nước lại được
bơm một lần nữa lên cao 1,069 feet
(346 m) bởi bốn trạm bơm - Dos Amigos,
Buena Vista, Wheeler Ridge, và Wind Gap - trước
khi đến chân rặng núi Tehachapi. Ở
phía nam thung lũng San Joaquin, một con kinh ngắn
dọc duyên hải - Coastal Branch - dẫn nước
về tưới cho những miền
ruộng đồng phía tây con kinh chính
California.Về sau, nhánh
kinh nầy được nối dài thêm
và dẫn nước đến tận
các quận Santa Barbara và San Luis Obispo. *
Trạm bơm Edmunston - The Big Lift: Ở
Tehachapi, trạm bơm vĩ đại A.D. Edmunston
nâng nước lên một cao độ
lớn, bằng một lần bơm trực
tiếp, 1,926 ft (624 m), để đưa vào
một hệ thống đường hầm
dài 8.5 dặm. Edmunston là trạm bơm có
mức độ đưa nước
lên một độ cao khác biệt lớn
nhất thế giới, bằng một lần
bơm trực tiếp. Từ rặng núi
chắn ngang Tehachapi, nước chảy vào
thung lũng Antelope. Tại
Antelope, kinh chia ra làm hai nhánh: Nhánh
phía đông vượt qua thung lũng,
đưa nước vào hồ Silverwood
trên vùng núi San Bernardino. Từ
Silverwood, nước chảy vào đường
hầm San Bernardino và rơi xuống một
cao độ 1,418 ft (459 m), vào nhà máy
thủy điện Devil Canyon, rồi chảy
vào hồ Perris, là hồ cực
nam trong dự án nguyên thủy. Nhánh
phía bắc chảy qua nhà máy thủy
điện Willium E. Warne vào hồ Pyramid
thuộc quận Los Angeles. Từ đây,
nước chảy qua đường
hầm Angeles và nhà máy thủy
điện Castaic, trước khi đổ
vào hồ Castaic. *
Các trạm bơm và nhà máy thủy
điện: Những
trạm bơm vĩ đại đã làm
cho dự án trở thành một khách
hàng tiêu thụ điện năng đặc
biệt lớn nhất ở California. Hầu
hết máy bơm và phát điện
có công suất từ 80,000 đến
160,000 Megawatts (1) mỗi máy. Từ Delta, vượt
qua thung lủng San Joaquin, dự án phải
bơm nước lên một cao độ
tổng cọng trên 3,000 ft, trước khi
đổ xuống các hồ chứa
ở nam California. Khi
dự án hoàn tất, 22 trạm bơm
sử dụng tới 13.7 tỷ Kilowatt-giờ
mỗi năm, để bơm 4.23 triệu AF.
Với công suất thiết kế, một
mình trạm bơm Edmunston cũng đã
dùng tới 6 tỷ kilowatt-giờ mỗi
năm. *
Thủy điện: Dự
án có 9 nhà máy thủy điện,
có khả năng cung cấp điện năng
tương đương cho hai thành phố
cỡ San Francisco - 6.4 tỷ kilowatt-giờ
mỗi năm - khi giảm nhu cầu tiêu thụ
của chính dự án xuống khoảng
một nửa. Nhà máy thủy điện
lớn nhất của dự án là
nhà máy Edward Hyatt, xây dựng
trên nền đá cứng dưới
đập nước Oroville. Hyatt sản xuất
trung bình 2.1 tỷ kilowatt-giờ mỗi
năm. Cách
vài dặm về phía bắc, phía dưới
Thermalito Forebay, nhà máy Thermalito sản
xuất 320 triệu kilowatt-giờ mỗi năm,
và nhà máy Đập Thermalito phụ
thuộc, hoàn tất năm 1987, sản xuất
17 triệu kilowatt-giờ mỗi năm. Những
nhà máy khác - Devil Canyon, Castaic, Warne,
và Alamo - hồi phục một phần
quan trọng năng lượng dùng để
bơm nước lên cao qua các dãy
núi, khi nước chảy xuống các
đồng bằng ở miền nam. Bốn
nhà máy nầy cung cấp thêm khoảng
3.4 tỷ kilowatt-giờ mỗi năm. Trạm
hỗn hợp bơm và phát điện
San Luis cọng tác sản xuất thêm 180
triệu kilowatt-giờ mỗi năm. Sau khi
nhánh kinh Duyên hải bắt đầu
hoạt động, trạm nầy tăng năng
suất lên 47 triệu kilowatt-giờ nữa,
mỗi năm. Phần
nhu cầu năng lượng còn lại
được cung cấp bởi nhiều
nguồn điện: những nhà máy
chạy bằng than đá, ánh nắng
mặt trời, gió, vàkể
cả từ những công ty điện
lực. *
Những đặc lợi khác của
dự án: -
Chống lụt: Dự
án giữ một vai trò rất quan
trọng trong việc trị thủy. Năm 1964, khi
đã được hoàn tất
một phần, đập Oroville đã tránh
được những trận lụt trên
sông Oroville. Từ khi hoàn tất, đập
đóng vai trò chính yếu điều
hoà nước mưa trong vùng. Kiểm
soát hữu hiệu nước lũ
trong vùng thung lũng San Joaquin là một
trong những thành quả lớn lao
của dự án, mặc dù đã
không được dự tính trong
lúc đầu. Năm 1977, dự án
đã hoàn tất một công trình
trên sông Kern, cho phép nước
lũ trên sông nầy được
tháo vào kinh California. Nước được
đưa về miền nam, và một phần
được bơm ngược trở
lên phía bắc để sử dụng
cho nông nghiệp. Công trình nầy không
những chỉ giúp kiểm soát nước
lũ, mà còn tiết kiệm rất
nhiều năng lượng đáng lẽ
phải được dùng để
bơm nước lên từ vùng
Delta. -
Nhà máy ấp trứng cá Feather: Việc
xây cất đập Oroville đã làm
thương tổn nhiều dặm sông đã
từng là nơi sinh đẻ của
nhiều giống cá hồi (steelhead, king
salmon). Thủy cục Tiểu bang đã xây
dựng một nhà máy sinh đẻ
và ấp trứng cho những giống
cá nầy, vài dặm phía dưới
đập. Nhà máy nầy tuy được
Thủy cục tài trợ nhưng lại
do một cơ quan chuyên môn khác, "Sở
Quản Trị Cá và Giải Trí Trên
Hồ", quản lý. Nhà máy có
sức chứa 9,000 cá salmon và 2,000
cá steelhead đang thời kỳ sinh đẻ.
Lò ấp có sức chứa tới
20 triệu trứng cá, và 9.6 triệu
cá con được nuôi dưỡng
trong 8 đưỡng kinh bằng bê tông. Trên
đường về để sinh đẻ,
cá có thể được nhìn
thấy qua hàng cửa kính, và khi
cá leo lên thang để đến khu
đẻ trứng. Loại king salmon sinh đẻ
vào mùa xuân, thường về
vào tháng 6, trong khi cá steelhead và
cá salmon sinh đẻ vào mùa thu, thì
về từ tháng 9 tới tháng
11. Cả hai loại sẽ vừa bơi vừa
nhảy qua thang để lên tới hồ
lựa cá. Ở đây trứng
sẽ được lấy ra và ấp.
Cá con được nuôi dưỡng
trong một hệ thống hồ đặc biệt
cho đến khi đủ lớn để
được thả xuống sông. Và
từ đây, đàn cá con sẽ
trở lại biển cả; sống và
lớn lên ở đó cho đến
khi chúng bắt đầu lại cuộc hành
trình muôn thuở, về cội nguồn
để làm mới lại cái chu
trình tự nhiên của cuộc sống. -
Giải trí: Dự
án đã tính toán kỹ lưỡng
cho những phương tiện giải trí.
Từ Sierra cho đến nam California, tất
cả hồ thiên nhiên, hồ nhân
tạo, kinh đào,... đều có saün
nhiều phương tiện đủ loại:
Đi bộ, leo núi, bơi thuyền, cắm
trại, xe đạp, xem cảnh,... Ở
Bắc California, hồ Davis, Frenchman, và Antelope
đã được đặc biệt
xây cất thật thuận tiện cho việc
phát triển cá, thú thiên nhiên,
kể cả các môn giải trí, thể
thao. Cả ba hồ đều nuôi đầy
cá trout. Hồ Oroville, Thermalito trước
và sau vịnh đều có phương
tiện thể thao và cắm trại. Người
ta cũng thường được
phép săn bắn ở phần phía
sau vịnh. Hồ Del Valle ở uqận
Alameda, gần Livermore, có phương
tiện bơi thuyền, bơi lội, câu cá,
cắm trại,... Ở miền trung California,
du khách câu cá, bơi lội, trượt
nước, bơi thuyền, cắm trại,
săn bắn trên vùng hồ San Luis. Du
khách được bơi thuyền, câu
cá, cắm trại, trượt nước,...
trên hồ Castaic và Pyramid ở nam California.
Vùng rừng Liên bang Angeles có phương
tiện cắm trại. Ở hồ Perris, ngoài
những môn thể thao trên nước,
du khách còn đi bộ, leo núi, leo vách
đá, bơi lặn.Vùng
núi San Bernardino, hồ Silverwood có nhiều
phương tiện giải trí dồi dào.
Câu cá và đi xe đạp là
những môn giải trí rất phổ
thông dọc theo hầu hết những
kinh nước. -
Trung tâm du khách: Những
Trung tâm du khách ở hồ Castaic, Oroville,
San Luis cho du khách cơ hội xem lại phim ảnh,
tài liệu lịch sử, ghi lại quá
trình xây dựng dự án. Trung
tâm do Thủy cục Tiểu bang trực tiếp
điều hành, và những cuộc
viếng thăm có hướng dẫn
luôn luôn saün sàng cho du khách. *
Kế hoạch tài trợ của dự
án: Chứng
khoán 1.75 tỷ đô la đã cung
cấp nguồn tài trợ đầu
tiên cho dự án, và được
hoàn trả định kỳ bởi
30 cơ quan hợp đồng nguyên thủy,
trong 30 năm, và 21 cơ quan khác đã
lần lượt ký hợp đồng
trong những năm sau. Những công
ty hay cơ quan nầy đã ký hợp
đồng lâu dài với Thủy
cục. Tùy theo tính cách của hợp
đồng, một số những công
ty nầy chỉ được hưởng
dụng quyền lợi khai thác sau năm
1980, nhưng lẽ tự nhiên, hợp
đồng bảo đảm quyền lợi
thỏa mãn nhu cầu cấp nước
khi họ thực sự cần. Chính
phủ Liên bang tài trợ 77 triệu
trong chi phí xây dựng các đập
Oroville và Del Valle, cho phần liên hệ đến
công tác trị thủy. Một phần
chi phí khác liên hệ đến những
phương tiện giải trí, phát triển
môi sinh, cá, thú thiên nhiên,...
khoảng 188 triệu, do ngân sách Tiểu
bang đóng góp. Thủy
cục còn phát triển một số các
loại chứng khoán khác để
tài trợ cho các nhà máy thủy
điện. Tất cả chi phí của dự
án, tính đến năm 1985 là 3.6
tỷ mỹ kim. Phan Như Diệp(1)
Ghi chú của "Tòa soạn" BTTHĐL: Đây
có thể là lỗi đánh máy,
con số đúng chắc là "80 đến
160 megawatts", hoặc là "80,000 (ngàn) đến
160,000 (ngàn) kilowatts".
|