Truyên ngắn của Huỳnh Trung
Chánh
Vào
thời Pháp thuộc, khoảng năm 1937, giáo chủ đạo "Trần Truồng",
từ hòn Củ Tron (2), bỗng hứng chí hướng dẫn ba, bốn mươi
nam nưõ đệ tử, tất cả đều trần như nhộng, dong buồm
thẳng đến thị xã Rạch Giá, thản nhiên biểu dương lực
lượng quanh chợ, rồi đến tư dinh Tỉnh Trưởng đưa kiến
nghị "đòi nước". Thuở đó, biểu tình đòi nước là việc
cực kỳ nguy hiểm đưa đến án tử hình hay tù rục xương
nơi Côn Ðảo. Người dân vốn nhát gan, không dám nghe,
không dám thấy, không dám bàn bạc liên hệ. Thế nhưng, vụ
"cởi truồng" lạ lùng hấp dẫn quá, nên không ai bảo ai,
họ cũng đổ xô ra xem và nhiều người bạo phổi còn vỗ
tay hoan hô cổ võ. Diễn biến bất ngờ làm viên Tỉnh Trưởng
Phú Lang Sa và đám lính mã tà điên đầu nhức óc. Họ phải
huy động toán lính khố đỏ, nổ súng thị oai, để vất
vả tách rời đám biểu tình với kẻ hiếu kỳ, rồi tống
thầy trò đạo khỏa thân vào khám. Viên Tỉnh Trưởng cáo
già dấu nhẹm vụ xáo trộn chính trị địa phương,
bằng cách âm thầm áp giải nhóm biểu tình trở lại hoang
đảo ngăn cấm mọi sự di chuyển. Mặc khác, họ loan tin xuyên
tạc là nhóm trần truồng Củ Tron biểu tình "đòi nước ngọt",
chớ không phải đòi đất nước, như lúc đầu nhầm lẫn.
Tuy
người thuật chuyện đã dùng luận điệu mỉa mai, giễu cợt
để kể lại chuyện người xưa, nhưng lòng Thành vẫn cảm
thấy dâng tràn một niềm cảm kích đối với nhưõng kẻ
quê mùa dốt nát ở chốn hoang đảo, mà dám thẳng thắn bày
tỏ lòng yêu nước chân thành của họ. Ðó là lý do thầm
kín thúc đẩy Thành hướng dẫn phái đoàn Tỉnh viếng thăm
Củ Tron, với hy vọng tìm thấy manh mối ngừơi xưa.
Tạm
biệt khu chợ cá Bạch Ðằng náo nhiệt và vùng biển
đen đủi phù sa, thuyền tiến lần ra khơi. Khi hòn Rùa, hòn
Me, hòn Ðất bắt đầu mất dạng, bốn phương trời toàn
là biển cả mênh mông, chiếc thuyền con trở nên nhỏ nhoi
lạc lõng. Sau 10 giờ tù túng và ngất ngư bởi nhưõng đợt
sóng dập dồn liên tục, lòng háo hức biển khơi giảm lần.
Thành bỗng dưng thèm đất liền, nhớ mùi nồng nồng của
đất mới cày, mùi ngòn ngọt ngây ngây của cánh đồng lúa
trổ. Vì thế, khi quần đảo Nam Du vừa ló dạng trong sương
mù mờ ảo ban mai, tình đất đã khiến chàng rộn ràng sung
sướng.
Thuyền
len lỏi giưõa các hoang đảo dị dạng, mỗi hòn một sắc
thái, một vẻ đẹp riêng. Hòn Kỳ Lân, hòn Ðồi Mồi cục
mịch như con vật tiền sử khổng lồ. Hòn Trụi phẳng lỳ.
Hòn Nhạn trơ vơ sỏi đá. Hòn Móng Tay thon dài xinh xắn, được
điểm tô trên bãi cát nhỏ xíu bằng hai cội thiên tuế già
phất phơ. Giống như người hùng cô đơn hiên ngang trước
quân thù trùng điệp phủ vây, cây sơn đá cong veo trơ trọi
trên sườn đồi hòn Trống, rè cuồn cuộn bám víu vách đá
khô cằn không chút đất, mà vẫn ngạo nghễ nhìn đời. Dưới
nước, san hô hình gạc nai, hình bông cải, hình nấm đông
cô, hình hoa hồng khổng lồmọc
chen chúc nhau như một xóm làng đông đúc. Ở đó, từng đàn
cá mủm mĩm, rực rơõ màu sắc, vi kỳ ẻo lả thẩn thơ bơi
lội, rồi bỗng vội vàng biến mất. Thuyền tiến vào trung
tâm quần đảo. Bốn hòn đảo lớn: hòn Củ Tron, hòn Dầu,
hòn Mấu, hòn Nồm đã khéo léo nằm quay quần theo chu vi hình
tròn, tạo vùng biển mênh mông ở giưõa thành một biển
hồ yên tĩnh. Dù mùa biển động, mặt hồ cũng chỉ
gợn sóng lăn tăn nên hàng mươi bãi biển quanh hồ, với hàng
dừa thơ mộng, luôn êm ả, sẵn sàng chờ đón ghe thuyền
vào trốn bão.
Thiên
nhiên ở đây thật hoàn hảo. Trời cao ngất, biển mênh mông,
núi non xanh tươi hùng vĩ, bãi cát trắng tinh mịn màng, không
nơi nào bị xã hội văn minh làm vẩn đục. Còn nhưõng căn
nhà lá nhỏ, bụi chuối,hàng
dừa của người dân mộc mạc không hề đối nghịch mà chỉ
hoà hợp dịu dàng với thiên nhiên, tạo thiên nhiên thêm
đậm đà thơ mộng. Nhưõng ngày trên đảo, Thành thường
thơ thẩn dưới hàng dừa hoặc lang thang trên đỉnh đồi
cao, để nhìn rừng cây rưng rức cười cợt gió, hay nghe tiếng
sóng thì thầm với ghềnh đá xa xa. Không phải bận rộn với
xã hội lễ nghi hình thức, với danh vọng bạc tiền, con người
thật tự do thư thả. Trong phút giây, Thành cảm giác
mình nhẹ nhàng, bay bổng, "trần truồng" rong chơi với thiên
nhiên muôn điệu. Ờ nhỉ ! Thành thầm nghĩ
thiên nhiên đâu cần phải che dấu, đội lốt, nhân danh? Trời
đất, cỏ cây muôn đời vẫn trần truồng mà trong sạch.
Thành bỗng dưng cảm thấy gần gũi hòa hợp với Ông đạo
khỏa thân của ngày xa xưa ấy.
Thế
nhưng, Ông đạo đã chết vào năm 1944. Trên đảo, ngoài các
cô cậu bé tí vẫn hồn nhiên trần truồng hành
đạo, không tìm đâu được dấu vết gì về đạo khỏa thân.
Viên Trưởng ấp cho biết, trên đảo không có tu sĩ nào, ngoại
trừÔng đạo "Bé Năm" tại
Củ Tron. Nghe danh hiệu Bé Năm hơi lạ,
sẵn tánh hiếu kỳ, Thành nhất quyết đòi viếng thăm Ông
đạo, cho biết sự tình.
Bãi
Vắng, giang san của Ông đạo Bé Năm chỉ cách bãi Ngự chừng
15 phút đường ghềnh, nhưng viên Trưởng Ấp tận tụy với
thượng cấp đã chọn đường biển, dù việc lái thuyền
vào bãi rất khó khăn bởi đám đá ngầm lổm chổm, như muốn
xua đuổi kẻ phàm trần. Lõm đất bằng gầy guộc bao phủ
bởi đồi núi xanh rì, đã được gia chủ tiện tặn sử dụng
từng tấc đất. Vài mươi cây dừa cao nghệu được
trồng dài ra tận bãi cát, kế đó, là căn nhà sàn thô
sơ, mái tranh, vách đất, sàn nhum ọp ẹp. Trước sân, có
vài cây ăn trái: mít, đu đủ, cùng với liếp rau, giàn mướp.
Phía sau, là vài mươi bụi chuối lá xiêm mập ú được trồng
tiếp giáp đến mép đồi. Ông lão tuổi trên 70, mặc áo bà
ba vải nâu bình dị, dáng dấp cần cù của một nông dân
già, đang lúi húi chăm sóc nia chuối khô tươm mật, giựt
mình và mừng rơõ đón chào khách lạ. Sau khi được giới
thiệu, Ông lão khoanh tay lễ phép chào: "Hân hạnh được
tiếp đón Ông Phó. Kính mời Ông Phó vào nhà nghỉ. Tôi xin
phép nấu nước trà đãi khách."
Lão
già đưa Thành vào nhà, và mặc dù Thành ngăn cản, cũng nhất
quyết lui cui nhóm lửa. Nhà trống trơn làm Thành luống cuống,
không biết nên đứng hay ngồi xẹp xuống sàn. Trước mặt,
là kệ thờ Phật, trên đó có hai quyển sách giấy đã vàng
hoe cũ kỹ: quyển Kinh Nhật Tụng của Hội Phật Học Nam Việt
và quyển Pháp Bảo Ðàn Kinh của Ðoàn Trung Còn. Tò mò,
Thành lật vài trang sách, vô tình thấy hàng chưõviết
"Thân tặng anh Ðốc Phủ Lê Quang Phước. Chánh Tri".
Khám phá bất ngờ làm Thành giật mình, vì Ông đốc
phủ sứ Lê Quang Phước chính là vị tỉnh trưởng dân sự
đầu tiên tại tỉnh Rạch Giá, khi người Pháp bàn giao chính
quyền địa phương cho Việt Nam. Ngài đã từ dịch, lui về
quận Kiên Tân, lập chùa hoằng dương Phật Pháp rồi bất
thình lình bỏ đi mất tích. Không biết Ông đạo Bé
Năm nầy có liên hệ gì với vị Tỉnh trưởng ngày xưa?
Thành
vội đến ngổi gần bên ông lão, lựa lời để gợi chuyện:
"Xin lỗi cụ", Thành thật lễ phép, "có phải cụ
tục danh là Lê Quang Phước, nguyên tỉnh trưởng Rạch Giá
không ạ?" "A!", Ông lại bối rối, "Dạ! Ðó là
chuyện của 20 năm về trước. Xin Ông Phó cứ gọi tôi là
"Bé Năm" như mọi người là quí rồi!"
Trước
một vị đàn anh, đã có thời vang bóng, mà khiêm cung ẩn
dật, xem danh lợi như phù du, Thành vừa ngạc nhiên vừa cảm
phục. "Dạ thưa Ông Năm. Xin Ông Năm xem cháu như một đàn
em. Và nếu không có gì trở ngại, xin Ông Năm cho cháu được
biết nguyên do nào đã khiến Ông Năm rời Kiên Tân, đổi
tên họ, để về đây?" "Chuyện dài", Ông Năm hiền
hoa, "nhưng tôi vẫn sẵn sàng kể cho người hưõu duyên.
Trước hết, xin mời Ông Phó dùng chút trà. Trà rừng mà có
người tâng bốc là trà tiên, mọc hoang ở đây, lá già, lá
non, khô hay tươi đều sử dụng được. Trà thơm, nhưng thật
ra không thể nào so sánh được với trà đất liền, đã được
sấy, ướp công phu."
Sau
hai tuần trà, Ông Năm bắt đầu câu chuyện:
Như
Ông Phó đã biết, sau khi từ dịch, tôi về quận Kiên
Tân, xây cất ngôi chùa khang trangđể
khởi đầu ước mơ hoằng dương Phật Pháp. Mọi việc
đều tiến triển tốt đẹp, ngọai trừ ngôi vị trụ trì
luôn luôn bị khủng hoảng. Tôi thỉnh vị thầy nào về trụ
trì thì quí thầy chỉ ở từ 6 tháng đến 1 năm rồi tự
ý bỏ đi. Thuở đó, tôi nghĩ quí thầy lỗi trăm đường,
vì xét cho kỹ, tôi hết lòng vì đạo, đâu có làm điều
gì sai lầm đâu. Tuy nhiên, khi yết kiến bổn sư, Hoà Thượng
Huệ Quang, trước khi thầy tham dự Hội Nghị Phật Giáo
Thế Giới, tôi thỉnh ý thầy thì được thầy chỉ dạy:
"Các vị cổ đức cho rằng chùa xây dựng bằng sự đóng
góp rộng rãi của bá tánh thường trường tồn, trong
khi chùa của một đại thí chủ hay một nhóm người
dễ suy sụp, lý do là việc trường tồn của ngôi chùa tùy
thuộc rất nhiều vào duyên phúc người lập. Chùa của con
gặp rắc rối về vị trụ trì, kể ra thì cũng bình thường
thôi. Nhưng thầy khuyên con nên trì tụng Pháp Bảo Ðàn kinh,
để mọi việc sẽ được hanh thông".
Về
Kiên Tân, tôi trì tụng Kinh Pháp Bảo Ðàn liên tục. Ðến
ngày thứ hai mươi mốt, tụng đến đoạn thầy tăng tên Pháp
Ðạt (4), cậy đã tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn bộ khi lễ Lục
Tổ, đầu không sát đất, nên bị Tổ quở:
"Lạy mà đầu không sát đất, sao bằng chẳng lạy. Trong lòng
ngươi chắc có một vật, NGƯƠI CHẤT CHỨA VIỆC
CHI VẬY?". Câu hỏi của Lục Tổ làm tôi rúng động.
Tôi tự hỏi mình ÐÃ CHẤT CHỨA SỰ NGHIỆP GÌ mà khi xá
chào hay thưa chuyện với thầy trụ trì tâm tôi kiêu ngạo
bất phục. Pháp từ của Lục Tổ thật giản dị. Tụng kinh,
trì giới, xây chùa, hoằng pháp, là nhưõng phương tiện để
tu tâm. Nếu ôm ấp phương tiện đó như một công đức, một
sự nghiệp thì cống cao ngã mạn pháp sanh, ngã chấp nặng
nề, tham sân si tăng trưởng. Than ôi! Tôi đã tự cho mình
công đức cao dầy nên chầm chập phán xét người, mà không
hồi quang phản chiếu tự xét mình, chỉ thấy
lỗi người chớ đâu thấy lỗi mình (5).
Tôi
vội đến tăng phòng thầy trụ trì, vị sư trẻ mà bấy lâu
nay trong thâm tâm tôi vẫn đánh giá thầy thiếu vốn liếng
nội điển, ồn ào, hời hợt, lại thường khoe khoang
tài thuyết pháp, tài làm thơ khi tọa thiền, nhưng lần này,
tôi thấy thầy thật thánh thiện, viên mãn tròn đầy như
kim thân vị Bồ Tát. Tôi quỳ xuống, lễ thầy kính cẩn thành
tâm như lễ Phật, rồi giao hẳn ngôi chùa cho thầy, ra
ẩn cư chốn này.
Từ khi biết "buông bỏ sự nghiệp", biết thấy lỗi mình mà không thấy lỗi người, tôi tự thấy đạo đức mình còn thấp kém. Tôi chỉ mới có thể hành được cái hạnh tầm thường mà đứa trẻ lên năm nói được, chớ đâu đạt được một phần lời lẽ cao siêu mầu nhiệm của người lớn. Do đó, tôi đổi tên là Bé Năm, hầu nhắc nhở rằng đạo đức mình non kém, cần phải ngày ngày tu sửa.
Thành
lắng nghe mà lòng bồi hồi cảm động, không ngờ mình được
diễm phúc hầu chuyện với bậc trưởng thượng đạo cao
đức trọng. Chàng vừa tônkính
vừa thân thiết với ông lão, nên đến lúc phải giã
biệt, đã bịn rịn không muốn rời bước. Có lẽ Ông Năm
cũng cảm mến Thành, ông ân cần đưa chàng ra tận bãi,
và khuyên nhủ: "Thành ạ! Phó Tỉnh Trưởng là huyễn, mà
tù nhân hay thợ điện cũng đều là huyễn cả!"
Ngày
đó, Thành tưởng Ông Năm nhằm mục đích khuyên chàng nên
đối xử bình đẳng với mọi người, dù đó là nhân
viên thuộc hạ, thợ thầy hay tù nhân. Ngờ đâu
câu dặn dò chính là lời tiên đoán tương lai vận mạng của
chàng. Nhờ hiểu lý huyễn, chàng đã khinh thường khổ nhục
thương đau tại trại tù học tập cải tạo, chàng cũng đã
dửng dưng trước đời sống vật chất xô bồ, để cần
cù an phận với nghề thợ điện tử tại xứ người.
Tham
dự buổi picnic do công ty tổ chức tại
bờ biển Galveston, Thành lại có dịp thấy biển khơi.
Galveston thật tầm thường, ồn ào, nhơ bẩn. Mà cho
dù phong cảnh ở đây có đẹp tuyệt trần, thì Thành cũng
coi như là loại cảnh giả, không hồn, không có chút gì làm
cho lòng chàng lưu luyến. Ở xứ nầy làm sao tìm ra được
một bác nông dân, một bác thợ chài hiền lành? Làm
sao sản sanh ra được một Ông Năm thầm trầm giản dị?
Không
hoà hợp với đám đông reo hò cười cợt, Thành chọn một
tảng đá thật xa để ngồi trầm lặng. Ðang mơ màng nhớ
lại từng chi tiết chuyến viếng thăm Củ Tron ngày trước,
thì thình lình Thành nghe tiếng đàn bà léo nhéo bên tai. Ðó
là Mỹ Lệ, người đàn bà bay bướm, đang kéo lôi
Bob, tên chỉ huy hảo ngọt, đến một chỗ kín đáo
để trửng giơõn bốc hốt. Cảnh trái tai gai mắt đó làm
Thành buồn nôn, vừa gớm ghiếc vừa xấu hổ chung cho người
Việt. Lòng khinh bỉ dâng tràn, đến nỗi Thành phải
quay mặt đi tránh khỏi phải nhổ bãi nước miếng vào mặt
Mỹ Lệ. Hốt nhiên, chàng có cảm giác như Ông Năm nhìn chàng
rồi mỉm cười nhắc lại lời Lục Tổ: "NGƯƠI CHẤT CHỨA
SỰ NGHIỆP GÌ?" Chàng cảm thấy sưõng sờ thảng thốt, một
cái gì trống không, tươi mát, tràn ngập làm nước mắt chàng
ràn rụa, một kinh nghiệm lạ lùng khó tả! Chàng lẩm
bẩm: Ờ nhỉ ! Mình làm Phó Tỉnh, có chút chức phận,
chút tiền chớ có hành vi đạo đức nào cao đẹp đâu? Mình
có dựng được chùa, có bố thí thân mạng hay hết tài sản
chưa? Mà sao mình tự cao tự đại khinh khi người khác?
Chàng Ngọc mình chê là hạng "trung tá y sĩ", chàng Mai
thì nịnh nọt bợ đơõ, chàng Bách thì bần tiện bẩn thỉu,
còn các cô Mỹ Lệ, Thanh Nhã, Thiên Kim thì mình khinh là thứ
dâm đãng, đĩ điếm rẻ tiền. Ngay như các vị tu sĩ, ngoài
bổn sư, Hoà Thượng Thiện Hoà, có mấy vị được cao tăng
dạy dỗ mà đến giờ nầy, vẫn chỉ thấy lỗi người chớ
chưa biết thấy lỗi mình. Thật là xấu hổ, đáng bị thầy
"quở". Mà không! Thầy từ bi thầy có bao giờ quở trách ai
đâu!
Thầy
chỉ hiền hoà thở dài, than nhỏ nhẹ "tội nghiệp" mà thôi.
Bỗng nhiên, Thành cảm thấy gần gũi với thầy hơn cả ngày
xưa. Thầy là Viện Chủ chùa Ấn Quang, vị tu sĩ nổi tiếng
hiền hòa, sẵn sàng đùm bọcchu
cấp cho tất cả tu sĩ không "nhà", dù là bậc đạo đức
tăng hay kẻ trần tục tăng. Ðệ tử tại gia của thầy, trong
đó có cả Thành, thường soi mói nhìn các tu sĩ ở trọ để
mách với thầy về tư cách của họ: vị lố lăng chửi thề,
vị bay bướm hào hoa, lại cũng có vị rượu thịt bừa bãi.
Nhưõng tưởng thầy sẽ đuổi họ ra khỏi chùa, ngờ đâu
thầy chỉ thở dài "tội nghiệp". Thế thôi! Thầy vẫn
đối xử với các vị đó như bát nước đầy,
tương kính như đối với bậc đồng vai vế. Bây giờ Thành
mới hiểu được thầy. Thầy không bao giờ thấy lỗi người,
mà thầy bao dung thương xót cho kẻ yếu hèn, bị dục
vọng cuốn lôi vào vòng oan nghiệt.
Lòng
rộn ràng thay đổi, Thành đứng lên quan sát mọi người.
Ai chàng cũng thấy rất dễ thương, và hành vi nào của họ
chàng cũng có thể hiểu và thông cảm được cả. Chàng bỏ
dở buổi picnic, lái xe về Houston đến ngôi chùa
Việt Nam gần nhất, lên chánh điện lễ Phật. Chàng
quỳ xuống, chiêm ngươõng dung nhan từ bi của đức Phật
và đón nhận nụ cười thật nhẹ của Ngài, nụ cười từ
bi thông cảm, thương cho chúng sanh hèn yếu lầm lạc. Thành
lễ Phật xong, thì thầy trụ trì cũng vừa bước vào
chánh điện. Thầy hiện hưõu như là hình ảnh sáng ngời
của bổn sư hay của Ông Năm đạo hạnh. Thành phủ phục
xuống lễ thầy trang trọng như lễ một vị Bồ Tát. Sự
nghiệp chàng, lòng chấp ngã kiên cố của chàng, lòng tự
tôn tự đại của chàng, hốt nhiên tan vơõ thành mảnh
vụn. Chàng đứng lên nhẹ nhàng thanh thản, như mây bay,
gió thoảng, như cành cây, như cục đất, trần truồng trong
trắng thong dong.
Huỳnh
Trung Chánh
Ghi
chú:
1/
Quần đảo Nam Du, tức Pulau Dama (theo hải đồ quốc
tế), tức Củ Tron (địa danh bán chánh thức lâu
đời của dân biển), gồm 21 hòn đảo, nhưng chỉ 4 đảo
lớn: Nam Du (Củ Tron), Mấu, Dầu, Nồm là có dân cư trú. Về
phương diện hành chánh, Nam Du là một ấp thuộc xã Lại Sơn,
quận Kiên Thành, tỉnh Kiên Giang.
2/
Tục danh của giáo chủ đạo khỏa thân là Sáu Ðài (?),
người đã hành đạo, thâu nhận đệ tử và sau đó cũng
từ trần tại hòn Mấu vào khoảng năm 1944. Sự kiện ông
đạo khoả thân hướng dẫn đệ tử về Rạch Giá đòi
quyền Pháp trả nước là sự kiện có thật. Tuy nhiên, không
có tài liệu nào chắc chắn về chủ trương, đường lối,
giáo lý của phái nầy.
3/
Hoà Thượng Huệ Quang: một trong nhưõng vị cao tăng đã đóng
góp công đức lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo Miền
Nam. Ngài đã liễu đạo năm 1954 tại Ấn Ðộ, trong khi tham
dự Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới, với tư cách là Phó Hội
Chủ Tổng Hội Tăng Già toàn quốc.
4/
"Vị tăng Pháp Ðạt ở Hồng Châu thường tụng kinh Pháp Hoa,
đến lễ Lục Tổ mà đầu không sát đất. Tổ quở: Lễ
mà đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ. Trong tâm Ông
ắt có một vật, ông chất chứa việc gì? Pháp Ðạt thưa:
đã tụng được ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Tổ bảo: Ông
nếu tụng đến muôn bộ, đạt được ý kinh mà chẳng lấy
làm hơn thì cùng ta sánh vai. Nay Ông mang sự nghiệp nầy trọn
chẳng biết lỗi, nghe ta nói kệ đây:
Lễ
vốn chặt cờ mạn
Sao
đầu không sát đất
Có
ngã tội liền sanh
5/
Phần nầy cũng lấy ý từ Pháp Bảo Ðàn:
Thần Hội hỏi Lục Tổ Huệ Năng: "Hòa Thượng
ngồi thiền, thấy hay chẳng thấy?"
Sư
lấy gậy đánh Thần Hội 3 gậy mà hỏi rằng: "Ta
đánh ngươi đau hay chẳng đau?"
Ðáp: "Cũng đau mà cũng chẳng đau!"
Sư nói: "Ta cũng thấy mà cũng chẳng thấy!"
Thần Hội hỏi: "Cũng thấy mà cũng chẳng thấy, nghĩa là
sao?"
Sư nói: "Ta thấy là thường thấy các tội lỗi của
tâm mình, mà chẳng thấy điều phải quấy, tốt xấu, của
người. Bởi vậy cũng thấy mà cũng chẳng thấy. Ngươi nói
cũng đau mà cũng chẳng đau, nghĩa là sao? Nếu ngươi chẳng
biết đau, thì đồng với loài cây đá, còn biết đau thì
đồng với kẻ phàm phu, liền sanh giận hờn. Cứ như chờ
ngươi hỏi trước: Thấy hay chẳng thấy, ấy là chấp, hai
bên. Chớ ngươi nói: Cũng đau mà cũng chẳng đau, ấy là còn
sanh diệt."
(Trích Pháp Bảo Ðàn- Hoà
Thượng Minh Trực)