Hồi
ký của
Thu Thủy
Chuyến
đi nhiều gian nan ấy hằn sâu trong tâm khảm mình mặc dầu
đã 21 năm rồi từ ngày bốn mẹ con dắt díu khệ nệ khiêng
từng thùng thiếc bao bị đệm cả hơn trăm ký lô đồ ăn
lên tàu Thống Nhứt ra Thanh Hóa.
Mình
còn nhớ rõ buổi chiều ấy thật ảm đạm, nắng đã tắt
từ lâu như tia hy vọng mong chồng được thả về đã tiêu
tan, lòng nặng trĩu âu lo, mình cùng cậu Thu em trai của chị
Tố Nga chuyển các thùng đồ ăn nặng trĩu lên tàu (chồng
chị Tố Nga cùng ở chung trại Thanh Hóa, chị cảm thông mình
đơn chiếc yếu đuối nên cho em trai ra ga Lê Lai phụ mình).
Sau khi đã kiểm kỹ lại các thùng thiếc và chắc chắn không
cái nào bị mất mát, cho các con ngồi vào toa xong, mình vội
vã cám ơn cậu Thu, lúc ấy cũng hấp tấp nhảy mau ra khỏi
toa vì một hồi còi tàu rú lên, báo hiệu tàu sắp rời ga.
Lần
đàu tiên trong đời được đi xe lửa, ba con mình ngạc nhiên
lạ lùng mở to mắt nhìn các trẻ nhỏ cùng lứa tuổi đang
nô đùa trong các dãy nhà san sát cạnh đường rầy dọc theo
xóm Bàn Cờ, Hòa Hưng, Phú Nhuận, Bình Triệu. Mặc dầu mình
đã nói trước với các con là bốn mẹ con sẽ đi thật xa
ra Bắc thăm Ba, đem đồ ăn tiếp tế cho Ba nhưng hai đứa
con trai còn quá nhỏ, trí óc non nớt không mường tượng nổi
rằng đây là cuộc hành trình gian nan dài cả 1200 cây số.
Chỉ có con gái đầu lòng Thủy Tiên khôn lanh và lớn hơn,
mơ hồ cảm thấy không phải là một chuyến đi bình thường
nhiều thú vị như khi xưa cùng đi với cả gia đình ra Vũng
Tàu hoặc lên Ðà Lạt. Thủy Tiên thu mình lại, ngồi rúc
vào một góc băng, cặp mắt xoe tròn, lo âu nhìn các hành khách
xa lạ chung quanh. Sơn, Tùng vô tư lự và hiếu động, ngồi
không yên, tò mò chạy lăng xăng trong toa. Mình xót xa nhìn
các con thầm cầu nguyện cho bốn mẹ con được bình an suốt
cuộc hành trình.
Ðêm
đến bốn mẹ con co rút ngồi sát vào nhau, cố dỗ giấc ngủ
một cách khó khăn. Ðùi mình tê cứng, sưng húp lên vì muốn
cho các con được ngủ thoải mái, mình luân phiên kê đầu
mỗi đứa trên đùi mình, để các con đỡ mệt. Lưng mình
đau rả rời vì ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ bất động.
Ngồi kiểu nầy suốt ba ngày ba đêm chắc chết mất, mình
nhủ thầm, ngao ngán và mệt mỏi. Liếc mắt thấy các người
đồng hành mạnh ai nấy tìm một khoảng trống nhỏ dưới
chân hoặc ngay cả lối đi chật hẹp để trải tấm nylon
nằm cho đỡ mỏi lưng, mình cũng bấm gan trải đại các tờ
báo dưới băng, kêu Sơn Tùng thu mình co chân lại nằm đỡ,
nhờ vậy Thủy Tiên có thể tạm thời nằm dài ra trên băng
cây (có đến ba người lớn ngồi chen chúc trên một băng).
Mình thì chịu đựng hết nổi, lăn kềnh ra ở lối đi, đắp
vội cái khăn quàng cổ lên mặt để bụi cát từ giày dép
các hành khách qua lại không rơi vào mắt. Chưa bao giờ mình
thấy thấm thía câu "buồn ngủ gặp chiếu manh" như lúc nầy.
Bốn mẹ con nằm được "thoải mái" hơn, đỡ tê cóng chân
tay, nên mệt mỏi ngủ thiếp đi, đến sáng lúc nào không
hay, mặc dầu trong đêm bao nhiêu chân thản nhiên bước qua
người và đầu cổ mình. Thiên hạ nằm la liệt : người
lớn thì tràn ngập lối đi, trẻ con nhỏ người hơn cố chui
rúc xuống gầm băng, các bộ đội quen ngủ võng trong rừng
thì treo võng nằm vắt vẻo như vượn, đong đưa qua lại tỉnh
bơ trên đầu hành khách. Quang cảnh trong toa thật hỗn độn
chưa từng thấy : tiếng ho, tiếng khạc nhổ, tằng hắng,
tiếng trẻ nhỏ la hét khóc ban đêm, xen lẫn tiếng đập ruồi
muỗi chát chúa, chưa kể lâu lâu nước tiểu trẻ con đái
dầm ban đêm chảy dài loang ra sàn thối tha dơ bẩn.
Trời
hừng sáng bốn mẹ con lồm cồm ngồi dậy, áo quần nhớp
nhúa hôi hám, phờ phạc người, thấy ai nấy đều lấm lem,
lấy lon hoặc ca súc miệng, phun ra cửa sổ toa, làm vệ sinh
lau mặt ngay tại toa. Ban đầu còn ái ngại, sau đó mình cũng
quen đi, thản nhiên cho các con súc miệng như mọi người.
Tàu ngừng ở các ga lẻ ở miền Trung, cảnh buôn bán tấp
nập vô trật tự : ai cũng hấp tấp mua bán vì sợ tàu chạy
bất thình lình, không kịp đưa hoặc thối tiền.Thôi thì
tiếng la ó cãi vả mắng chửi chí chóe nổi lên, đinh tai
nhức óc. Thủy Tiên, Sơn, Tùng mừng rỡ vì được dịp ăn
các món cháo lòng, miến gà, cơm tấm bì, cơm sườn, hột
vịt lộn, bán dọc theo các ga. Ðã năm năm nay từ sau 75, quen
ăn uống kham khổ, các con ngạc nhiên thấy lần nầy mình
cứ mua tới tấp đồ ăn, đâu có ngờ rằng sở dĩ mình phung
phí là mình lo các con mệt đói, ngả bệnh không đủ sức
để tiếp tục băng rừng vô trại. Mình thì ngao ngán ăn uống
qua loa cho có sức cầm cự, nôn nóng mong sao cho tàu mau đến
Thanh Hóa, chán chường nhìn thắng cảnh qua cửa sổ mặc dầu
dọc đường có biết bao bãi biển xanh biếc và núi non hùng
vĩ của miền Trung.
Sau
ba ngày trời ròng rã sống trong địa ngục hôi hám của toa
xe chật chội dơ dáy, bốn mẹ con đến Thanh Hóa. Lại một
phen chật vật, chen lấn, mồ hôi nhễ nhãi, bốn mẹ con mới
khệ nệ khiêng đủ các thùng thiếc nặng cồng kềnh xuống
ga. Thật là "trầy da tróc vảy" vì chỉ cần sơ hở một chút
thì bị mất cắp đồ hoặc bị móc túi ngay. Sơn mới mười
tuổi đầu hơn còn Tùng chưa đầy chín tuổi, nhưng đã tỏ
ra bảo bọc che chở má và chị yếu ớt, giành xách các bao
bị đệm to. Nhìn các con nhỏ bé khẳng khiu oằn vai dưới
gánh nặng mình đau lòng tủi thân vô cùng. Vì đâu mà nên
nỗi nầy? Mình cắn răng để khỏi bật khóc, mím môi nhìn
lên trời xanh, thầm cám ơn ơn Trên đã phù hộ bốn mẹ con
đi đường bình an vô sự.
Ðường
vào trại xa cả năm chục cây số mà đã xế chiều hết xe
đò đi ngang trại, nên bốn mẹ con đành phải vào tạm trú
ở nhà trọ gần ga. Nói là nhà trọ, nhưng thật sự chỉ
là những tấm phên tạm dựng lên sơ sài, trong có nhiều giường
tre ọp ẹp cho khách mướn nghỉ đêm đỡ, đợi sáng sớm
hôm sau lấy xe đò vô trại. Bốn mẹ con kinh hoàng chui rúc
nằm trên chõng tre cũ kỹ xiêu vẹo. Mình lấy các thùng thiếc
bao bị sắp xếp lại, và tấn xung quanh cái mùng rách nát
vá víu cả trăm lỗ, vì nghe nói đồ ăn để ngoài mùng sẽ
bị chuột cống chiếu cố. Ðêm đó mình phải đương đầu,
dương Ðông kích Tây với lũ muỗi đói vo ve bay tới tấp,
xuyên theo các lỗ rách của mùng. Nhưng hãi hùng nhứt là mục
kích từng đoàn chuột cống kếch xù đánh hơi mùi đồ ăn,
chạy lúc nhúc xung quanh các thùng thiếc y như những bóng ma
trong các phim kinh dị. Nửa đêm, Sơn bị "Tào Tháo rượt",
mình phải bấm gan rùng mình dẫn con ra nhà vệ sinh nhớp nhúa
tận sau hè, tối om và thối tha. Hai mẹ con sợ hãi gớm ghiếc
không dám nhìn cái thùng phẩn đầy dòi và ruồi nhặng, lại
càng thêm rùng mình rợn xương sống khi trở về giường dưới
bóng cây đa, với tàn lá âm u ma quái.
Tờ
mờ sáng, mình giật mình vội đánh thức các con dậy để
cùng nhau gom góp hành lý, khập khểnh khiêng lần ra bến xe
đò gần đó, sắp hàng mua vé. Chen vai thích cánh với làn
sóng người hỗn độn, nón lá rách bươm, mình mớỉ khổ
sở giành giựt mua được vé xe đò vào gần trại. Sau khi
chuyển được đồ đạc lên xe, mình thở phào ôm các con
ngồi vào băng phía cuối xe. Mình tự phục thầm lấy mình
là không hiểu có sức mạnh phi thường nào mà mình có đủ
sức cùng các con khiêng lên xe cả trăm kí lô lương thực.
Chiếc xe đò già nua sét rỉ, chậm chạp lăn bánh... Gió mát
buổi sáng tinh sương hiu hiu thổi, Thủy Tiên, Sơn, Tùng lim
dim ngủ gà ngủ gât, vì đêm qua không được ngon giấc bởi
lũ chuột và muỗi. Nhìn các con ngủ thơ ngây như thiên thần,
mình cảm thấy ruột gan se thắt lại. Một ông lão nông dân
ngồi gần thấy cảnh bốn mẹ con lặng lẽ nắm tay nhau, thu
mình trong góc xe, tỏ vẻ ái ngại hỏi thăm. Mình bâng quơ
trả lời qua loa, lòng tự ái không muốn ai thương hại. Lâu
lâu đi ngang các ổ gà, xe giằng mạnh, tung xốc các hành khách
ruột gan như muốn lộn ra ngoài. Xe chạy độ một tiếng rưỡi
thì ngừng trước một lều tranh được dựng bên đường,
nơi điểm hẹn sẽ có xe trâu mỗi ngày từ trại ra đón các
thân nhân trong Nam ra thăm nuôi trại viên. Bốn mẹ con tụt
xuống xe, quần áo xốc xếch đầy bụi bặm, mặt bơ phờ
thiểu não.
Mình
vội kiểm lại đồ đạc, mừng rỡ thấy không bị mất mát
hư hao vì trộm cắp và lũ chuột. Mình xoa đầu ba con khuyến
khích khen "Các con giỏi lắm, đã phụ Má xách đồ ăn nặng
cho Ba mà lại ngoan nữa. Ba sẽ rất mừng gặp lại các con
và biết ơn Má con mình đã đem đồ ăn ra cho Ba". Thủy Tiên,
Sơn, Tùng lặng lẽ không đáp, chỉ nắm chặt tay mình lại,
lòng mình ấm lại, bao nhiêu nỗi nhọc mệt như tan biến,
vì biết rằng bên mình còn có các con ngoan. Mình nhủ thầm
: "Can đảm lên! Mình đã gần tới đích rồi! Ðường đi
dầu có hiểm trở cách mấy, mình cũng không ngại. Chỉ còn
một đoạn đường ngắn nữa thôi! Cố gắng lên!"
Ðúng
như các chị bạn đi thăm nuôi trước đã nói : một lát sau
tới giờ hẹn, một người đàn ông đánh xe trâu lù lù tiến
ra lều tranh. Bốn mẹ con mừng rỡ, lại một phen vất vả,
chất đồ đạc lỉnh kỉnh lên xe, sau đó lầm lũi theo sau
xe trâu. Con trâu già chậm chạp kéo chiếc xe. Tiếng bánh xe
khô nhớt cứ cót két vang lên, người đàn ông thì lầm lì
ít nói. Trời nắng gắt nhưng lạnh vì lúc ấy đã vào tháng
ba. Bốn mẹ con bỡ ngỡ rảo chân bước mau theo xe, ba con chạy
lúc thúc sát theo mình, ngây ngô chỉ chỏ cảnh vật, hỏi
han lăng xăng chừng nào sẽ gặp lại Ba. Như người không
hồn, mình im lặng nối gót theo các con, âm thầm thất thểu
đi. Vô tư lự, Thủy Tiên, Sơn, Tùng hồn nhiên tung tăng chạy
nhảy dọc theo đường mòn thích thú khi gặp các hoa dại tím
mọc cạnh dòng suối con, ba đứa hái vài cành hoa buộc lại
thành một bó nhỏ, nói với mình là để tặng Ba, làm mình
càng xúc cảm, se thắt cả lòng.
Xa
xa núi Lam Sơn mờ hiện ra và thấp thoáng kế bên là trại
Lý Bá Sơ. Núi rừng tĩnh mịch âm u làm mình chợt rùng mình
khi nghĩ đến các anh phải chôn vùi những ngày dài nơi sương
lam chướng khí nầy, không biết ngày nào đoàn tụ với vợ
con. Mình vội xua đuổi ý nghĩ hắc ám ấy, giựt mình khi
nghe Tùng than mỏi chân quá. Mình vội bồng con lên, cố gắng
lê bước theo xe trâu. Không hiểu nghĩ sao, người đàn ông
lại lên tiếng ngắn ngủi "Chị cho cháu nhỏ ngồi đỡ một
đoạn lên xe đi." Tùng mừng rỡ vội nhảy thót lên thùng
thiếc ngồi trong lúc Thủy Tiên, Sơn lộ vẻ bất bình, trừng
mắt nhìn Tùng. Mình thở dài chép miệng nói nhỏ với hai
đứa lớn. "Thôi! Em nó còn nhỏ mà con!"
Gần
xế chiều, con trâu già phì phèo nước bọt tiến vào trại,
bốn me con thiểu não lê gót theo, dép cứ bị sình ướt nhầy
nhụa trên đường bám chặt thật khó đi. Thấy Thủy Tiên,
Sơn bực dọc giựt mạnh dép lên than thở trơn trợt khó đi,
người đàn ông cười khẩy mỉa mai nói: "Ðất nầy nó như
thế đấy, cứ thích bám chặt mãi lấy người đi". Mình nhếch
mép ngoảnh mặt nhìn nơi khác, chả buồn đối đáp. Trút
tất cả các thùng bao bị vào nhà tiếp tân, mình cảm thấy
như trút đi một gánh nặng trĩu đè lên vai mình suốt mấy
ngày nay.Ðầy đủ đồ ăn tiếp tế và thuốc men đã được
an toàn vô tận trại. Mình mừng khấp khởi nghĩ nhờ cả
trăm ký lương khô và thuốc men nầy mà chồng mình sẽ có
sức khỏe để chống chọi với rừng thiêng nước độc.
Trong
nhà tiếp tân mới xây cất xong (oái oăm thay sau nầy mình
mới nghe nói lại là nhà nầy do đội Xây dựng của anh Trường
vừa xây xong chưa kịp lắp cửa nữa), ngoài bốn mẹ con còn
có chị Lang từ Gò Công và chị Cao từ Thủ Thiêm ra thăm
chồng trước mình một ngày. Hai chị đã được nói chuyện
với chồng lúc trưa, nhưng trễ quá không còn xe trâu đưa
ra đường cái đón xe đò về Thanh Hoá nên hai chị nán ngủ
qua đêm đợi mai sáng về cho đỡ nguy hiểm. Nhìn nét mặt
dàu dàu buồn của hai chị, mình cảm thông sâu xa nỗi buồn
nhớ mong ấy. Khắc khoải đợi chờ, hăm hở từ trong Nam
xuôi ra Bắc vượt ngàn dặm, băng rừng vượt suối, bất
chấp hiểm nguy đang chờ đợi mình, để rồi được hội
ngộ ngắn ngủi với chồng chỉ trong nửa tiếng, không được
một cái nắm tay vội vã, chớ đừng nói chi một nụ hôn
thắm thiết, còn gì thảm não cho bằng.
Cho
các con ăn qua loa xong, mình ra tận phía sau, dắt các con đại
tiện trong nhà vệ sinh nhỏ tạm thời được cất lên thật
thô sơ và như mọi hố xí ở miền Bắc có cái thùng phân
đầy dòi lúc nhúc. Hai đứa lớn kinh tởm, nhắm mắt nhắm
mũi vội "ị" cho xong, chỉ có Tùng sợ té vào thùng phân,
nhứt định nín không chịu vô cầu đầy ruồi nhặng thối
tha. Mình đành buộc lòng để Tùng "ị" trên bờ gần ao sen
và múc thùng nước giếng kế bên dội mạnh xuống ao. Sau
ba ngày trên tàu không tắm gội, ba đứa nhỏ mình mẩy nhớp
nhúa được mình kỳ cọ rửa ráy thơm tho, nên vừa lên giường
xong là lăn kềnh ra ngủ ngon lành. Mình cũng vội vàng tắm
gội sau đó vì ba ngày trời trong toa xe như địa ngục trần
gian, mình cảm thấy bứt rứt ngứa ngáy khó chịu không thể
tả.
Ðêm
xuống dần, tiếng chim bìm bịp kêu thật buồn bã, hoà lẫn
với tiếng côn trùng nỉ non làm mình cảm thấy não nuột
cả lòng. Ðưa mắt nhìn vào trại hẻo lánh phía xa xa, mình
thầm nghĩ giờ nầy chắc anh Trường đã được báo có vợ
con ra thăm nuôi, chắc anh cũng trằn trọc không ngủ được
như mình. Mình kéo cao cổ áo len, định đi ngủ, chợt thấy
cánh cửa chưa được gắn nên phòng cứ mở toạc ra, gió
lạnh ngang nhiên lùa vào, mình vội bàn với hai chị bạn cùng
nhau kéo cánh cửa nặng trĩu chận đỡ ngang qua cho chắn bớt
gió lại và cũng để phòng ngừa cán bộ liều lĩnh đột
nhập vào như đã có tiếng đồn ở các trại kế bên.
Trời
vừa hừng đông, mình còn chập chờn mệt mỏi trong giấc
ngủ đầy mộng mị thì bị đánh thức nhỏm phắt dậy vì
tiếng tru tréo lanh lảnh chát chúa của một nữ cán bộ bên
tai : "Thế lầy là thế lào? Ai mà dám cả gan ỉa trên bờ
ao như thế lầy? Ðể cho ông già Ðào phải đi hốt đồ dơ
như thế?" (Ông Ðào là một tù nhân tự quản hình sự đã
già). Mình điếng người chợt nhớ đêm qua trời tối nên
mình sơ ý không thấy rõ để dội kỹ phẩn của Tùng xuống
ao vì vậy mà còn rơi rớt vài "cục" trên bờ. Mình và các
con rán nín cười khi nghe nữ cán bộ tiếp tục hét ỏm tỏi
ngoài sân để chửi bóng chửi gió.
Nghe
tiếng chân nhiều người dừng lại trước nhà tiếp tân,
mình và hai chị bạn vội kéo lê cánh cửa gỗ qua một bên.
Hên phước làm sao, đúng ngày đội xây dựng đang tụ tập
điểm danh trước khi rã hàng lao động trước nhà tiếp tân.
Các bạn anh Trường nhìn mình xì xào nói nhỏ : "Anh Trường
ở phía sau hàng đó chị, chị thấy ảnh chưa? Một lát nữa
chị sẽ gặp ảnh". Mình hồi hộp khi thấy bóng anh Trường
thấp thoáng phía sau. Mình an tâm thấy anh lành lặn mạnh dạn
tiến vào phòng tiếp tân, nơi đó có cán bộ chễm chệ lạnh
lùng ngồi sẵn ở đầu bàn. Bốn mẹ con lính quýnh ngồi
phệch xuống ghế đối diện. Vợ chồng mình nghẹn ngào nói
không ra lời, mắt nhìn mắt, cái nhìn thật sâu đậm thiết
tha, nói lên sự chờ mong khắc khoải từ bao nhiêu năm dài.
Ba con vội bíu lấy Ba hôn thật thắm thía. Anh cảm động
xoa đầu ba đứa nhỏ, nghẹn lời. Anh chép miệng nhìn mình
: "Sao Em ốm quá vậy? Em có sao không?" Mình ràn rụa nước
mắt, chỉ biết siết bàn tay chai cứng vì lao động của anh.
Tùng
nhõng nhẽo quen vòi vĩnh nên sáng sớm hôm đó chưa ăn sáng,
bụng đói cồn cào, được dịp mè nheo với Ba như ở nhà
: "Ba ơi! Con đói bụng quá!" Nhưng cán bộ dửng dưng, nhứt
nhứt theo luật định không cho thân nhân ăn uống với trại
viên, làm Tùng tiu nghỉu, phụng phịu oà lên khóc. Thủy Tiên,
Sơn cũng oà lên khóc theo em như đưa đám ma, làm vợ chồng
mình càng cảm thấy uất nghẹn. Anh Trường chỉ kịp hỏi
thăm về sức khỏe, học hành của các con, còn mình thì lật
đật hỏi anh về đời sống lao động ở trại, những câu
hỏi thật nhạt nheo và rổng tuếch.
Sau
đó thì cán bộ lạnh lùng dõng dạc tuyên bố : "Ðã nửa
giờ qua rồi, cuộc thăm viếng đến đây chấm dứt! Nếu
anh học tập lao động tốt thì sẽ được thăm viếng lâu
hơn, có khi được cả ngày". Cả gia đình miễn cưỡng nói
những lời tạm biệt, tha thiết dặn dò nhau giữ gìn sức
khỏe và luyến tiếc bịn rịn chia tay, sau khi mình phụ chất
các thùng ăm ắp đồ ăn lên xe "cải tiến" (xe cút kít có
tay kéo như xe kéo trong Nam). Mình thẫn thờ nhìn anh còng lưng
đẩy xe nặng trĩu các bao bị đồ ăn đầy bụi đường và
mồ hôi nước mắt của vợ con. Bóng anh khuất dần... tiếng
kẽo kẹt của bánh xe hòa lẫn với tiếng khóc thút thít hờn
dỗi của Tùng cứ xoáy mạnh vào đầu mình nhức nhối. Mình
ôm đầu lảo đảo ngồi phệch xuống thềm đá. Thủy Tiên,
Sơn vội rầy Tùng : "Nín đi, Tùng đừng khóc nữa, đừng
làm má buồn nữa!" Mình ôm choàng lấy ba con, nghẹn ngào nhìn
Tùng tha thứ.
Chợt
nhớ cả bốn mẹ con bụng đói meo, chưa ăn sáng, mình chạy
vội ra sau bếp, hì hục nhóm lửa nấu nồi nước sôi, bỏ
vào chút đỉnh bún Tàu còn sót lại trong bao hành lý, và nêm
thêm chút muối tiêu bột ngọt. Bốn mẹ con đói quá, ăn ngấu
nghiến ngon lành tô miến "thất nghiệp" nhớ đời đó. (Tiếc
công lặn lội cả mấy ngàn cây số, nên mình dồn gởi tất
cả cho anh Trường, chỉ để lại cho bốn mẹ con chút đỉnh
bún Tàu và vài bịch mì gói ăn đỡ dạ thôi). Ăn xong, bốn
mẹ con tom góp đầy đủ hành lý để kịp theo xe trâu trở
lại đường cái đón xe đò trở về Thanh Hóa. Lúc đó anh
Trường đã trở ra để kịp tiễn đưa vợ con về. Giây phút
biệt ly thật não nùng. Cả nhà bịn rịn, lưu luyến không
muốn xa rời. Các anh bạn đang lao động chung quanh cũng ứa
nước mắt ái ngại nhìn mình cùng ba con mọn thất thểu leo
lên xe trâu. Anh Trường mấp máy môi nói : "Em và các con về
bình yên!" Mình lí nhí ngậm ngùi run giọng : "Anh ở lại rán
được mau về".Mình vốn ghét ba chữ "lao động tốt", tránh
không nhắc đến. Ba con vẫy tay luyến tiếc chào ba.
Mưa
phùn lại lất phất rơi, cái lạnh xé da cắt thịt : đúng
là rét tháng Ba ở miền Bắc!! Cái lạnh lẽo ngoài trời không
ghê gớm da diết đeo đẳng bằng cái lạnh cô đơn trong tâm
hồn. Ngồi co gối trầm ngâm trên xe trâu, mình thẫn thờ
như người mất hồn. Ðồ ăn, hành lý đã được chuyển
đầy đủ vào trại, bận về thật nhẹ gánh, nhưng sao lòng
cứ canh cánh nặng trĩu ưu tư. "Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương!" Mình bất giác rùng mình nhớ
lại khi xưa có người quở trách bảo tại sao đám cưới
hai đứa lại làm vào tháng bảy mưa ngâu, dễ bị chia lìa
ngăn cách như Ngưu Lang Chức Nữ.
Ðường
về xa dịu vợi, xe trâu lắc lư trên đường mòn gập ghềnh
thả bốn mẹ con mệt nhoài xuống đường cái để lấy chuyến
xe đò chót về Thanh Hóa. Tới đây mới vỡ lẽ : không thể
nào mua vé tàu về Nam được, mà phải trở lộn ra Hà Nội
mới hy vọng có vé về Sài Gòn. Mình thất sắc ngao ngán lo
âu nhìn các con nhỏ dại lại phải cực nhọc một phen lặn
lội nữa ra tận Hà Nội. Vé đi Hà Nội hiếm như vàng, muốn
mua vé chợ đen cũng không có. Mình thất vọng bối rối, hoang
mang không biết tính sao thì thời may có người mách bảo cứ
năn nỉ ở quày vé nói có con mọn bịnh cần mua gấp vé về
Hà Nội thì họa may mua được vé. May mắn thay thấy mình
chạy thất thểu với ba con mọn đùm đề lôi thôi lếch thếch,
người bán vé thương tình "nhín" được bốn vé cho bốn mẹ
con. Như bắt được vàng, mình hăm hở kéo các con lên toa
dành cho các người có con mọn liều lĩnh đi Hà Nội vì không
còn cách nào khác.
Tới
Hà Nội, mình mừng rỡ gặp lại hai chị Cao và chị Lang cũng
đang chờ mua vé về Sài Gòn.Ba chị em hỏi thăm nhau tíu tít
và chen lấn rách cả áo, tóc tai bù xù mới mua được vé
về Sài Gòn tối hôm đó. Không biết làm gì cho qua thì giờ
vì sân ga chật hẹp tràn đầy người, sợ lưu manh cướp
giựt móc túi nên mình dẫn các con đi một vòng hồ Hoàn Kiếm
và lấy xe điện "leng keng" xuống chợ Ðồng Xuân mua vài món
lặt vặt, đem theo đi đường. Khí hậu Hà Nội lạnh hơn
Thanh Hóa nhiều nên Thủy Tiên, con gái yếu đuối hơn, than
lạnh và vì đi bộ nhiều nên cũng than mỏi chân. Mình vội
kêu một xích lô đạp chở bốn mẹ con về ga trở lại sau
khi sắp hàng dẫn các con vào ăn phở ở một tiệm nổi danh
phố Nam Ngư cho ấm bụng và lấy sức lại vì ban sáng chỉ
ăn một tô miến lõng bõng nước và muối tiêu.
Tối
hôm đó bốn mẹ và hai chị bạn mừng rỡ nhảy lên toa tàu
Thống Nhứt trực chỉ về Sài Gòn. Hành lý thì gọn ghẽ
nhẹ nhàng, nhưng mỗi người mang nặng một tâm tư. Lần nầy
thì các con đã quen cảnh hỗn độn và dơ dáy trên tàu nên
ba đứa biết thân phận, mỗi đứa tìm một góc kẹt dưới
băng, chui rúc vào như đàn chó con, co ro khoanh tròn mình lại
ngủ.
Một
hồi còi tàu rú dài trong đêm tối... Tàu chuyển bánh nặng
nề, chậm chạp và uể oải, uể oải như tâm hồn mình, trống
rỗng và chán chường.. Tiếng còi tàu lại rít lên trong bóng
tối dày đặc. Mình mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại chập
chờn thoáng thấy xa xa bóng anh Trường âm thầm mất hút vào
trại, đâu đây như còn văng vẳng tiếng ba con thơ dại ú
ớ trong mơ : "Ba ơi! Ba ơi!" Mình thiếp dần, thiếp dần...
Chân tay rã rời. Con tàu vẫn lạnh lùng tiến trong màn đêm
âm u như một bóng ma...