ĐỌC
THƠ ĐƯỜNG
Bài của Tôn Thất
Uẩn
(với sự cộng
tác của nhà thơ Hoài Châu)
Ngày xưa ở nước ta, những vị sính thơ đều thích đọc thơ Đường mà
các cụ cho là hay hơn cả trong nền thi ca Hán văn. Ngày nay, muốn
biết cái hay, cái đẹp của Đường thi, phần đông chúng ta phải tìm qua
những bài dịch; cũng may, nhờ các bản dịch có giá trị của Phan Huy
Vịnh, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Nhượng Tống, Nam Trân v.v... và
trội hơn hết là gần trăm bài dịch của Tản Đà, chúng ta cũng có thể
biết được thế nào là cái thú đọc thơ Đường.
Không phải ngẫu nhiên mà thi ca đã đạt được thành tựu rưc rỡ
nhất trong văn học đời Đường mà đó là nhờ ở tác dụng của những
điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội vào thời ấy. Lịch sử phát triển
của thi ca đời Đường được chia làm bốn thời kỳ: Sơ, Thịnh, Trung và
Vãn Đường. Thời kỳ Sơ-Thịnh, chính
trị ổn định và xã hội phồn vinh đã thúc đẩy sự phát triển và
truyền bá các thể loại văn học -- đặc biệt là thơ -- đồng thời kích
động hứng sáng tạo của các nhà thơ. Mặt khác, tình hình xã hội rối
ren vào cuối Thịnh Đường và nhất là Trung-Vãn Đường khiến các nhà
thơ chú tâm vào tình trạng xã hội và cuộc sống; chiến tranh triền
miên làm cho dân chúng phải lâm vào cảnh điêu linh, khốn khổ, do
đó, chiến tranh và hậu quả của nó đã trở thành một trong những đề
tài chủ yếu và loại thơ tự sự, trước ít được chuộng, nhờ vậy đã
phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Trên phương diện thượng tầng
kiến trúc, có nhiều điều ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của
văn học nói chung và thơ nói riêng. Ở đời Đường, Đạo giáo, Nho giáo
và Phật giáo đều hưng thịnh; dù đôi khi có sự thay đổi về thứ bậc
tùy sở thích của các bậc vua chúa, tuyệt không có sự bài xích lẫn
nhau là “dị giáo” giữa các tín đồ của tam giáo. Nhờ vậy, nếp suy nghĩ
của các nhà thơ, các sĩ phu được cởi mở, không bị câu thúc bởi
những giáo điều cứng nhắc. Và do đó, thơ đời Đường đã có cùng lúc
một “thánh thơ” Đỗ Phủ, một “tiên thơ” Lý Bạch, một “phật thơ” Vương
Duy. Một điều nữa là vào đời Đường, thơ đã chiếm một địa vị quan
trọng trong chế độ thi cử để chọn quan chức, do đó, đã có một cao
trào học tập sáng tác thơ trong hàng ngũ sĩ tử khiến cho thơ ngày
càng phát triển. Sau hết, thơ Đường còn được thừa hưởng cả một quá
trình phát triển lâu dài của ngành thơ Trung Hoa. Tinh thần của Kinh
Thi, Khuất Nguyên, của thơ nhạc phủ, ... phong cách của dân ca Nam và
Bắc triều, những lý luận, cách thẩm định thơ của Chung Vinh, Lưu Hiệp,
... đều được các nhà thơ, các nhà lý luận đời Đường kế thừa một
cách linh động và sáng tạo.
Tuy nhiên, nói về sự thành tựu của thơ Đường mà không nhắc
đến vai trò của các đại thi hào như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Bạch
Cư Dị v.v... thì quả có điều thiếu sót. Những gì được trình bày trên
đây là những yếu tố ảnh hưởng tốt đẹp đến sự phát triển của thơ
Đường.
Nhưng đưa thơ Đường lên đến tuyệt đỉnh đó chính là nhờ ở sự
đóng góp của từng cá nhân các vị kể trên. Sở dĩ như vậy vì họ có
tư tưởng phóng khoáng, chân trời kiến thức rộng mở và khi cần, có
thể vượt khỏi lối suy nghĩ, cách nhìn thường hữu để tìm những hướng
đi mới, những nguồn cảm hứng mới khiến cho vườn thơ đời Đường luôn
luôn có thêm kỳ hoa dị thảo. Điển hình là nhà thơ Lý Bạch. Nhiều
người cho ràng tư tưởng chủ đạo của ông là Đạo giáo; nhưng có người
cho đó là tư tưởng Nho giáo; người khác lại cho là tư tưởng Pháp gia
và cũng có người cho là tư tưởng Phật giáo (lý do là những bài thơ
nhuốm mùi thiền của Lý Bạch còn nhiều hơn của Vương Duy). Nói cách
khác, tài năng của Lý Bạch đa diện, diện nào cũng đặc sắc, độc
đáo như nhau, không ai sánh kịp. Cho nên, câu nói “Lý Bạch chính là
Lý Bạch” của một học giả đã được nhiều người tán đồng. Vị thứ hai
là “thi thánh” Đỗ Phủ, người mà Nguyễn Du đã từng tôn xưng là bậc “Thiên
cổ văn chương thiên cổ sự”. Cho đến cuối thời kỳ Thịnh Đường thơ
Đỗ Phủ, sáng tác trong hoàn cảnh một xã hội phồn vinh, phần lớn
mang tính chất phóng khoáng, tươi sáng và lạc quan. Nhưng bắt đầu từ
thời kỳ Trung Đường, xã hội rối ren, nhân dân điêu linh khốn khổ
khiến các nhà thơ, vốn giàu tình cảm, không thể không chú ý đến
cuộc sống của người dân. Đây chính là cơ hội để Đỗ Phủ đưa tự sự,
thời sự và nghị luận vào thơ -- đặc biệt là thơ tứ tuyệt.
Với tinh thần ấy, Đỗ Phủ đã viết những vần thơ đầy nhiệt
huyết để nói lên nỗi khổ của người dân. Thơ Đỗ Phủ, sáng tác trong
thời kỳ này, đã đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong quá trình
phát triển thơ Đường. Thơ Đường đạt tới đỉnh cao trong ngành thơ là
nhờ ở những tài năng xuất chúng như Lý Bạch, Đỗ Phủ v.v...; giả
thử không có họ thì chắc gì thơ Đường đã trội hơn cả trong toàn bộ
thi ca Hán văn.
Thơ Đường có một sắc thái đặc thù, đó là mối quan hệ giữa
thơ và các ngành nghệ thuật khác. Vào thời đó, các ngành nghệ
thuật như âm nhạc, vũ đạo, hội họa, thư pháp (nghệ thuật viết chữ),
v.v... đã rất phát triển và chắc hẳn đều có tác dụng nâng cao
khiếu thẩm mỹ của các nhà thơ. Đặc biệt có mối quan hệ khăng khít
giữa hội họa và thi ca. Nhiều nhà thơ cũng đồng thời là họa sĩ,
chẳng hạn như thi hào Vương Duy; nhiều bức họa của ông -- nhất là
họa phá mặc sơn thủy -- đến nay vẫn còn được truyền tụng. Nói về
Vương Duy, Tô Đông Pha, một danh sĩ đời Tống, đã có câu “thi trung
hữu họa, họa trung hữu thi” ( trong thơ có họa, trong họa có thơ).
Cũng do mối quan hệ đó mà hội họa còn có tên gọi là “vô thanh
thi” (thơ không tiếng).
Một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển của thơ
Đường là sự xuất hiện của thể thơ “thất ngôn luật thi”. Thể luật
thi là thể thơ bó buộc về niêm luật, âm vận và cả cách đối ngẫu
nữa bằng những qui tắc phức tạp, câu thúc nhà thơ khi sáng tác.
Nhưng thi nhân đời Đường đã vận dụng những qui tắc ấy một cách tài
tình để tạo ra những vần thơ tuyệt diệu. Ngay chỉ riêng với thể thơ thất
ngôn luật thi, đời Đường cũng đã tạo nên một thời đại thi ca sáng
chói trong lịch sử văn chương Trung Hoa. Thơ thất ngôn luật thi chiếm đa
số trong hàng trăm nghìn bài thơ của hàng nghìn thi nhân được ghi trong
bộ Toàn Đường thi. Và, như chúng ta đều biết, thể thơ này được du
nhập vào Việt Nam và đã ngự trị trong một thời gian dài trong mọi
sinh hoạt văn học, trong khoa cử, lúc giao du, khi thù tạc, xướng họa,
chắp chữ gieo vần.
Phần trên đây nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát về thơ Đường,
đồng thời nhấn mạnh về số lượng thơ và thi nhân để các bạn có thể
hình dung được sự khó khăn của người làm công việc tuyển dịch, một
việc mà anh bạn Nguyễn Công Thuần của chúng ta đã giao phó cho tôi
“để có bài đưa vào Bản Tin THĐL” năm nay. Lòng kính mến của tôi đối
với các bạn không cho phép tôi “chọn đại” một ít bài thơ của các
đại thi hào để các bạn giải trí trong chốc lát. Tôi muốn làm một
cái gì có đôi chút ý nghĩa. Để có thể đạt mục đích ấy, tôi đã
giới hạn sự chọn lựa vào một số ít đề tài và một thể thơ nhất
định.
Đề tài thì không gì khác hơn là những đề tài thường gặp trong
các bài đăng trên Bản Tin, tức là tình quê hương, tình bạn, làng xưa
lối cũ ... Những đề tài này cũng thường thấy trong thơ Đường.
Vào đời Đường, chiến tranh đã buộc hàng vạn trai tráng phải
sung quân đánh giặc hoặc đồn trú nơi biên cương tít mù xa thẳm. Trong
số những quan chức phục vụ ở hậu phương, có người vì phạm lỗi hoặc
làm phật lòng cấp trên thường bị biếm (giáng chức) và đổi đến
những địa phương xa xôi diệu vợi. Vợ con họ không thể theo cùng, đành
phải ở lại quê nhà, sống bơ vơ trong niềm thương nỗi nhớ. Cái cảnh “tương
tư đôi chốn, tình ngàn dặm” này đươc Lý Bạch cô đọng bằng hai
câu thơ trong bài “Xuân Tứ”: “Đương quân hoài qui nhật; thị thiếp
đoạn trường thì” [Trong lúc chàng nghĩ đến ngày về; ấy là lúc
thiếp (đau đớn đến) đứt ruột (vì thương nhớ)]. Tình quê hương cũng là
một đề tài quen thuộc trong thơ Đường. Nhà thơ Cô Huống biểu lộ nỗi
nhớ quê bằng một hành động đầy ý nghĩa: “Du du Nam quốc ti; dạ
hướng Giang Nam bạc” [Nhớ về nước Nam xa vời vợi; (nên) đêm
thuyền đỗ quay đầu về Giang Nam].
Trước đây, khi chưa ly hương, chúng ta cũng đã đọc những vần thơ
này và cảm thấy bùi ngùi cho số phận những người trong cuộc. Có ai
ngờ, một thời gian sau, chúng ta đã sống lại cái tâm trạng của
người xưa, phải sống xa quê hương, mòn mỏi trong nỗi vắng thiếu những
người, những cảnh thân quen không còn nữa; nỗi lòng của người thiếu
phụ xa chồng trong thơ phải chăng cũng là nỗi lòng của hiền nội
chúng ta khi chúng ta đã phải đi “học tập cải tạo” hoặc “vượt
biên" một mình. Đến bây giờ, chúng ta mới thấy được thi ca là
mối dây đằm thắm giữa nhà thơ và người đọc. Nhà thơ tả cảnh: cảnh
ấy vẽ ra trước mắt người đọc; nhà thơ tả tình: tình ấy là tình của
người đọc. Chính sự truyền cảm mãnh liệt ấy tạo nên nguồn sống và
giá trị của bài thơ. Chúng ta đồng cảnh ngộ với nhà thơ, nên hơn ai
hết chúng ta rất dễ cảm ứng với thi nhân. Cách xa họ hàng bao nhiêu
thế kỷ, chúng ta vẫn cảm thấy xúc động mạnh mẽ để lòng mình hòa
nhịp với tâm hồn nhà thơ.
Bằng vào những đề tài nói trên, tôi đã chọn lấy 25 bài: 8
bài về tình quê hương, 3 bài về tình nhà, 6 bài về ngày trở lại cố
quận, 4 bài về tình bạn và 4 bài về tâm sự người chinh phụ. Tuy
nhiên những bài này được trình bày theo thứ tự Sơ, Thịnh, Trung, Vãn
Đường để các bạn khỏi phải nhàm chán vì đọc mãi một đề tài.
Về thể thơ, sự chọn lựa có phần khó khăn hơn vì mọi thể thơ
đều đặc sắc với đầy đủ các đề tài gợi hứng cho thi nhân. Như nhiều
người trong các bạn đã biết, thơ Đường gồm có 3 thể thơ: cổ phong,
luật thi (bát cú và trường luật) và tứ tuyệt (còn gọi là tuyệt
cú). Luật thi bị trói buộc trong những khung cảnh chật hẹp, những
luật lệ nghiêm khắc và tuy các thi hào đời Đường đã sử dụng những
qui tắc phức tạp ấy một cách sáng tạo, đôi khi họ cũng phải “vi
luật”. Riêng tôi, mặc dù thơ thất ngôn luật thi chiếm đa số trong
toàn bộ thơ Đường và bài thơ được rất nhiều người công nhận là hay
nhất là bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (hay Hạo) cũng là
một bài thất ngôn luật thi, tôi vẫn thấy có một cái gì không được
tự nhiên trong thể thơ ấy -- nhất là các bài thơ trữ tình -- và đôi
khi, tôi không khỏi có cảm tưởng là những bài thơ ấy “tựa như những
đồ chơi bằng ngọc, bằng ngà, chạm trổ rất tinh xảo, trau giồi bóng
lộn” (Trần Trọng Kim -- “Đường Thi”) hơn là mối dây truyền cảm giữa
nhà thơ và người đọc.
Thơ cổ phong và thơ tứ tuyệt thể hiện sự dung hòa giữa thể thơ
buông thả không vần không điệu và thể thơ luật trói buộc, tù túng.
Thơ cổ phong thích hợp hơn thơ tú tuyệt nếu dùng vào việc tường thuật
một sự việc có đầu đuôi, đầy đủ tình tiết, hoặc miêu tả một quang
cảnh rộng lớn hay một tâm trạng có quá trình diễn biến phức tạp vì
không bị hạn định về số câu, số chữ. Thơ tứ tuyệt, trái lại, có
tính cách cô đọng, súc tích hơn. Hình thức của nó là hình thức nhỏ
bé (chỉ 4 câu). So với các loại thi ca trên thế giới, trừ trường hợp
cá biệt, nó chỉ dài hơn thơ haiku Nhật bản trên dưới một câu (tùy
theo thất ngôn hay ngũ ngôn). Tuy nhỏ bé, thơ tứ tuyệt có thể đề cập
đến nhiều vấn đề một cách sinh động, độc đáo nhất là với chủ
trương đưa tự sự và nghị luận vào thơ của Đỗ Phủ. Hai câu thơ sau đây
trong bài tứ tuyệt Kỷ Hợi tuế của Táo Tùng cũng hùng hồn
không kém gì những bài thơ chống chiến tranh theo thể khác, kể cả
bài thơ cổ phong nổi tiếng Bình xa hành của Đỗ Phủ: “Bằng
quân mạc thoại phong hầu sự; nhất tướng công thành vạn cốt khô”
( Bạn đừng bàn chuyện phong hầu nữa; một tướng công thành, vạn xác
khô). Theo cụ Trần Trọng Kim, thơ tứ tuyệt (tuyệt cú) có đặc điểm
như sau: “Thơ tuyệt cú lấy lời nói gần mà tình xa, hàm súc, không
lộ làm quí.”
Nói cách khác, là dùng lối nói gián tiếp; mà lối gián tiếp
lại rất thích hợp với thơ Đường là thơ của các mối quan hệ -- đặc
biệt là quan hệ giữa tình, ý và cảnh. Người đọc thơ phải lưu ý phát
hiện cho ra những mối quan hệ và ý nghĩa của các mối quan hệ này.
Theo Văn Nhất Đa, một nhà thơ kiêm nhà lý luận nổi tiếng thời cận
đại thì tứ tuyệt là “hình thức tốt nhất của thơ trữ tình”. Thơ trữ
tình phải cô đọng và những bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng nhất đã thể
hiện một cách tuyệt diệu vẻ đẹp cô đọng ấy.
Sau hết, tưởng cũng nên nói sơ qua về thi pháp tứ tuyệt. Với
thơ tứ tuyệt, trong đa số các trường hợp, câu thứ ba là câu “bản
lề”.
Dương Tài đời Nguyên có nói:
“Câu hết mà ý chưa hết, phần lớn là do biết lấy câu thứ ba làm
chủ còn câu thứ tư là chỉ phát triển tiếp. Uyển chuyển biến hóa,
công phu là ở câu thứ ba, nếu ở đây chuyển được tốt thì câu thứ tư
cứ như thuyền thuận trôi theo dòng vậy”.
Sự phân biệt trên đây giữa hai thể thơ cổ phong và tứ tuyệt
chỉ có tính cách đại khái, còn muốn dùng để chọn thể thơ nào hầu
đưa vào bài viết này thì lại không áp dụng được. Bản Tin THĐL chú
trọng về tình nghĩa và kỷ niệm, mà thơ cổ phong thì không thiếu gì
những bài thơ về loại này. Một trong những bài hay nhất -- nếu không
nói là bài hay nhất -- theo thể cổ phong là bài Xuân Tư [“xuân tư”:
nhớ (nhân) xuân (về); cũng có người hiểu là “xuân tứ”: ý xuân]
của Lý Bạch đã nêu ở trên; hai câu cuối của bài này “Xuân phong
bất tương thức; hà sự nhập la vi “ [Gió xuân không cùng nhau quen
biết; (thì) việc gì (lại) xông vào màn là (của thiếp)] đã gợi hứng
cho nhiều thi sĩ về sau ở Trung Hoa cũng như ở các nước khác; ở Việt
Nam, có Tản Đà và Hàn Mặc Tử. Lẽ ra thì phải chọn cả hai thể thơ,
nhưng làm vậy bài này sẽ quá dài đối với khuôn khổ của Bản Tin
THĐL, do đó phải chọn một: những bài thơ dưới đây đều thuộc thể tứ
tuyệt (ngũ ngôn hay thất ngôn). Mà cũng vì phải giới hạn chủ đề,
thể thơ và số trang, rất nhiều nhà thơ có danh tiếng lại không được
đề cập đến.
Vì vậy, khó có thể nói các bài thơ được tuyển dịch dưới đây
tiêu biểu cho toàn bộ thể thơ tứ tuyệt đời Đường mà chỉ nên coi đó
như những tỉ dụ nhằm cung cấp một ý niệm về vườn thơ tứ tuyệt muôn
màu muôn sắc của thời ấy.
Về công việc dịch thơ, với cái vốn chữ Hán quá ít ỏi, tôi tự
thấy không làm nổi, nhất là khi cụ Trần Trọng Kim đã nói: “Dịch
thơ nọ ra thơ kia, khó nhất là đừng bỏ sót những ý nghĩa cốt yếu và
đừng làm mất cái thần câu thơ trong nguyên văn” (TTK -- sđd). Thế
cho nên tôi đã nhờ người bạn là nhà văn kiêm nhà thơ Hoài Châu
làm hộ.
Ông Hoài Châu, ngoài những bài viết và thơ đăng trên các tạp
chí Việt và Anh, còn là tác giả của một công trình tuyển dịch thơ
Hán văn từ đời Đường, qua các đời Tống, Nguyên, Minh đến đời Thanh
(sắp xuất bản).
Tất cả các bài thơ được tuyển dịch dưới đây đều gồm có các
phần như sau:
- Bài thơ chữ Hán
- Phần phiên
âm Hán-Việt
- Bản dịch
theo nguyên thể (nhằm thể hiện cái khí thơ của tác giả)
- Bản dịch
theo thể lục bát (gần tâm hồn người Việt hơn)
Trong số các bài thơ chữ Hán, có xen một vài bài viết tay theo
lối “chân” và “thảo” cho thêm phần cổ kính.
Vì không phải là người
chuyên nghiên cứu thơ Đường nên chắc hẳn bài viết không khỏi có
những chỗ sai lầm, thiếu sót, mong các bạn lượng tình. Bây giờ, xin mời các bạn thưởng ngoạn
một vài bông hoa đẹp của vườn thơ tứ tuyệt đời Đường.
Tôn Thất Uẩn
HẠ TRI CHƯƠNG
Hồi Hương
Ngẫu Thư 1 Về
Quê Ngẫu Viết 1
Dịch nguyên thể:
Tuổi trẻ xa nhà, già trở lại
Giọng quê không đổi, tóc mai gầy;
Nhi đồng nay gặp, không quen biết
Cười hỏi: "Từ đâu khách đến đây?"
Dịch thể lục bát:
Thiếu tiểu ly gia lão
đại hồi Trở
về quê lúc tuổi già
Hương âm vô cải mấn mao thôi Hương
âm chẳng đổi tóc thưa mái đầu.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức Trẻ
rằng: "Ông đến từ đâu?"
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ? Hỏi
như hỏi kẻ chưa hầu biết quen.
Hồi Hương Ngẫu Thư 2 Về Quê Ngẫu Viết 2
Dịch nguyên
thể:
Xa cách quê hương đã bấy chầy
Việc đời ngẫm lại lắm chua cay
Chỉ riêng hồ nước ngoài khung cửa
Sóng vẫn như xưa lớp lớp bày.
Dịch thể lục bát:
Ly biệt gia hương tuế nguyệt đa Quê
nhà xa cách bao năm
Cận lai nhân sự bán tiêu ma Việc
đời gạn lại nửa gần tiêu vong.
Duy hữu môn tiền Kính Hồ thủy Chỉ
riêng hồ nước ngoài song
Xuân phong bất cải cựu thời ba Như
xưa dưới ngọc xuân phong gợn hoài.
TRƯƠNG CỬU LINH
Tự Quân Chi Xuất Hĩ Từ Buổi Chàng Ra Đi
Dịch nguyên
thể:
Chàng ra đi bấy chầy
Cửi canh mặc nhện vầy
Đêm lại đêm mòn mỏi
Nhớ chàng như trăng đầy
Dịch thể lục bát:
Tự quân chi xuất hĩ Từ
chàng cất bước lên đường
Bất phục lý tàn ky Cửi
canh thiếp bỏ cho màng nhện giăng.
Tư quân như nguyệt mãn Nhớ
chàng như ánh trăng rằm
Dạ dạ giảm thanh huy Đêm
đêm ánh sáng giảm dần quang huy.
VƯƠNG DUY
Tạp Thi Thơ
Vặt
Dịch nguyên
thể:
Bạn từ cố hương lại
Chuyện quê hương hẳn rõ
Trước song thêu ngày ấy
Mai cành hoa đã nở?
Dịch thể lục bát:
Quân tự cố hương lai Anh
vừa từ biệt quê hương
Ưng tri cố hương sự Chuyện
quê anh hẳn tỏ tường hơn ai.
Lai nhật ỷ song tiền Cửa
buồng thêu đó cành mai
Hàn mai trước hoa vị? Trời
đêm lạnh lẽo hoa thì nở chưa?
Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ngày Trùng Cửu
Ức Sơn Đông Huynh Đệ Nhớ
Anh Em Ở Sơn Đông
Dịch nguyên
thể:
Một thân làm khách trọ xa quê
Giai tiết càng thêm nỗi nhớ nhà
Trèo núi anh em giờ vẫn biết
Chỉ riêng vắng mặt có mình ta.
Dịch thể lục bát:
Độc tại dị hương vi dị khách Một
thân làm khách xa quê
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân Gặp
khi trời đẹp nhớ nhà khôn nguôi.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ Anh
em trèo núi dạo chơi
Biến tháp thù du, thiểu nhất nhân ... Thù du cành bẻ một người thiếu thôi.
Chú thích: Thù du là thứ cây có hoa đẹp. Ở Sơn Đông, tết Trùng Dương
có tục mọi người leo núi bẻ một cành thù cài đầu lấy
"khước" ... Tác giả bài thơ xa nhà, nghĩ lúc anh em họp mặt
đông đủ, chỉ thiếu một người là mình, mà buồn!
LÝ BẠCH
Tĩnh Dạ Tư Đêm
Yên Tĩnh Suy Nghĩ
Dịch nguyên
thể:
Trước giường trăng sáng gương
Ngờ đất phủ màn sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Dịch thể lục bát:
Sàng tiền minh nguyệt quang Trước
giường trăng sáng như gương
Nghi thị địa thượng sương Ngờ
trên mặt đất màn sương phủ mờ.
Cử đầu vọng minh nguyệt Ngửng
đầu trăng sáng như thơ
Đê đầu tư cố hương Cố
hương ta những hồn mơ cúi đầu.
Ức Đông Sơn Nhớ
Đông Sơn
Dịch nguyên
thể:
Đông sơn cách biệt mãi
Tường vi nở mấy thời.
Mây trắng bay tản mát
Nhà ai trăng sáng rơi.
Dịch thể lục bát:
Bất hướng Đông Sơn cửu Đông
sơn xa cách lâu rồi
Tường vi kỷ độ hoa Tường
vi nay đã mấy thời nở hoa.
Bạch vân hoàn tự tán Tan
tác mây trắng trời xa
Minh nguyệt lạc thùy gia? Nhẹ
nhàng trăng sáng bên nhà ai rơi.
CAO THÍÏCH
Trừ Da Tác Viết
Đêm Giao Thừa
Dịch nguyên
thể:
Đèn lạnh phòng khuê sầu lẻ bóng
Vì đâu thao thức mãi thâu đêm.
Mơ hoài quê cũ xa ngàn dặm
Lại một năm về tóc bạc thêm.
Dịch thể lục bát:
Lữ quán hàn đăng độc bất miên Đèn
mờ lữ quán đơn côi
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên Vì
đâu dạ khách rối bời lòng thơ.
Cố hương kim dạ tư thiên lý Nhớ
quê muôn dặm xa mờ
Sương mấn minh triêu hựu nhất niên Năm
về thêm để bạc phơ mái đầu.
ĐỖ PHỦ
Tuyệt Cú Tuyệt
Cú
Dịch nguyên
thể:
Nước biếc chim thêm trắng
Nước xanh hoa tươi sao.
Xuân này thôi đã quá
Quê cũ về năm nao.
Dịch thể lục bát:
Giang bích điểu du bạch Non
xanh thêm vẻ hoa tươi
Sơn thanh hoa dục nhiên Cánh
chim thêm trắng trắng ngời non xanh.
Kim xuân khan hựu quá Lựu
hoa đã nở trên cành
Hà nhật thị qui niên? Ngày
về quê cũ biết đành năm nao?
SẦM THAM
Đề Bình Dương Quận Đề Cây
Liễu Ở Bên Cầu Sông Phần
Phần Kiều Biên Liễu Thụ Quận Bình Dương
Dịch nguyên
thể:
Đất này ta từng ở
Về như về cố hương
Sông Phần ôi khóm liễu
Tương kiến đầy luyến thương.
Dịch thể lục bát:
Thử địa tằng cư trú Nơi
này ta ở năm xưa
Kim niên uyển tự qui Năm
nay trở lại quê nhà khác chi.
Khả liên Phần thượng liễu Sông
Phần thương liễu trên đê
Tương kiến dã y y Người
quen tương kiến trăm bề luyến thương.
Kiến Vị Thủy Tư Tần Xuyên Thấy Vị Thủy Nhớ
Tần Xuyên
Dịch nguyên
thể:
Sông Vị về đông chảy
Ngày nào tới châu Ung
Đôi dòng lệ xin nhớ
Vườn cũ cho gửi chung.
Dịch thể lục bát:
Vị Thủy đông lưu khứ Rạt
rào sông Vị về đông
Hà thời đáo Ung Châu Bao
giờ cảnh trí châu Ung tới gần
Bằng thiêm lưỡng hàng lệ Hai
hàng lệ chảy phân vân
Ký hướng cố viên lưu Vườn
xưa xin gửi tình thâm tới cùng.
Phùng Nhập Kinh Sứ Gặp
Sứ Vào Kinh
Dịch nguyên
thể:
Phía đông vườn cũ đường xa tắp
Tay áo luôn luôn gạït lệ tràn
Trên ngựa trùng phùng không giấy bút
Nhờ anh nhắn hộ vẫn bình an.
Dịch thể lục bát:
Cố viên đông vọng lộ man man Phía
đông vườn cũ đường xa
Song tụ long trung lệ bất can Aùo
tay luôn gạït lệ sa nhạt nhòa.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút Trên
yên bút giấy không mà
Bằng quân truyền ngữ báo bình an Nhờ
anh tin nhắn về nhà bình an.