Nhân Quả
Bài của
An Nghiêm
Nhân Quả 1:
Bác
sĩ Dick Millls đọc đi đọc lại bản tường trình từ phòng thử nghiệm gởi
đến về sự phức tạp của chứng bệnh Hemothilia mà bé Jennifer Garison
đang mắc phải. Từ lúc sinh ra, Jennifer đã phải nằm luôn trong bệnh
viện. Bé được chuyển từ Woman Hospital sang Children Hospital sau
khi bác sĩ ở đây không tìm ra được nguyên nhân căn bệnh bé đang mang. Nhớ lại
khuôn mặt của vợ chồng Larry và Laura Garison, bác sĩ Mills
chợt lắc đầu, không biết ngày mai, khi gặp lại họ ông sẽ phải bắt đầu như thế
nào cho ổn!
Dưới
ánh sáng những ngọn đèn neon, trong căn phòng họp đóng kín cửa của bệnh
viện, khuôn mặt của Laura, vốn đã xanh xao, lại càng xanh thêm. Mặc dù
mới sinh con chưa được hai tháng, cô không có sự tươi mát của một bà mẹ trẻ,
"gái một con trông mòn con mắt." Hai mắt cô sâu
thẳm, lúc nào cũng như đang suy tư, lo nghĩ. Bác sĩ Mills
cảm thấy ái ngại khi bất chợt nhìn thấy đôi mắt buồn vời vợi của cô. Ông
quay sang phía người chồng; Larry có khuôn mặt sáng sủa, đẹp trai. Dù
mệt mỏi, đôi mắt của anh vẫn còn sự trong sáng, cương nghị. Bác
sĩ Mills mỉm cười dịu dàng với họ. Ông biết là
mình phải bắt đầu buổi nói chuyện càng sớm càng tốt. Ông
không đoán được phản ứng của họ ra sao, nhưng ông biết là nếu ông kéo dài sự
chờ đợi của họ thì sẽ làm cho hai người trẻ này thêm lo lắng. Nhưng liệu
khi nghe xong những gì ông sắp nói, thì không biết có quá tàn nhẫn với họ
không.
Theo
bản tường trình thì căn bệnh này tạo ra là do sự kết hợp của một dòng máu mà ra.
Nghĩa là bố mẹ của hài nhi phải là anh em ruột.
Suốt
một đêm, ông đã thao thức, không ngủ được. Vài năm gần đây, ông có đi dự những
khóa tập thiền do một vị thiền sư người Việt hướng dẫn. Qua
những khóa tu tập này, ông bắt đầu nghiên cứu về đạo Phật, một tôn giáo mà chỉ
trước đó vài năm, không bao giờ ông nghĩ đến. Nhờ những phương pháp học
được, ông đã tự giúp mình thư dãn một cách dễ dàng khi
gặp chuyện khó xử, thế mà cả đêm qua ông đã thất bại trong việc này. Ông phải
rời phòng ngủ, vào thư phòng, tìm đọc thêm về chứng
bệnh hiếm hoi này. Cuối cùng, ông bắt gặp mình đọc những câu chuyện về nhân quả
của đạo Phật.
*
Bác
sĩ Mills chưa dứt lời, Laura đã thảng thốt kêu lên:
- "Dạ không! Làm gì có chuyện đó, thưa bác sĩ. Chúng tôi không phải là anh em ruột đâu. Chúng
tôi chỉ mới gặp nhau lúc cả hai đang học ở đại học Yale cách đây ba năm
thôi. Larry từ Los Angeles đến, còn tôi từ
Larry ôm
vai vợ, từ tốn:
- "Dạ chắc cái kết quả thử nghiệm này không phải của chúng tôi đâu
bác sĩ. Hoặc là phòng thử nghiệm làm sai, hoặc là
của bệnh nhân khác. Chúng tôi chưa hề biết nhau, gặp nhau, cho đến ba năm
trước, thì làm sao lại có chuyện chúng tôi là anh em được. Vả lại, tôi là con
một. Bố mẹ tôi chỉ có mình tôi thôi."
Bác
sĩ Mills nhìn hai người, lòng chùng xuống:
- "Thực tình mà nói, tôi cũng nghi ngờ sự chính xác của việc thử
nghiệm, nên đã kiểm chứng lại với phòng thí nghiệm trước khi gặp anh chị. Kết quả vẫn ra như vậy. Dĩ nhiên là khoa học không phải đúng
trăm phần trăm, nhưng trường hợp này rất đáng tin. Ý tôi chỉ
mong anh chị nên giúp cháu bằng cách giúp tôi kiểm chứng lại phía anh chị.
Nếu quả như vậy, chúng tôi sẽ hướng phần chữa trị cháu cho thích hợp, may ra
mình có thể cứu cháu. Bằng không thì ít ra cũng ngừa được
việc đáng tiếc xảy ra thêm lần nữa. Anh chị cũng nên
suy nghĩ, tìm hiểu thêm. Tôi thành thật mong là tôi
lầm."
*
Bà Liz cúi đầu xuống bên tách trà đã nguội. Bà bối rối trước mặt chồng con. Có nên nói
thật chuyện lòng ra không? Câu chuyện mà bà đã dấu kín hơn hai mươi lăm
năm nay. Tại sao lại có chuyện trớ trêu này? Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy được? Chẳng lẽ chồng
bà lại là người đã... Bà như chìm vào
quá khứ, của một đêm theo bạn đi dự buổi dạ tiệc của
ngày ra trường trung học năm nào...
Năm
ấy, Liz vừa mười bảy tuổi. Suốt những năm đi học, cô chưa bao giờ có bạn trai
như các bạn cùng lớp. Liz học rất giỏi. Với số điểm ra
trường thật cao, cô đã thuyết phục được cha mẹ cho cô tham đự buổi dạ tiệc suốt
đêm của trường tổ chức. Đêm đó, cô được mẹ trang điểm thật xinh, cô còn nhớ mẹ
cô đã đưa cô vào một tiệm bán áo dạ hội, nơi đây, mẹ đã mua cho cô chiếc áo cô
thích nhất. Nhìn vẻ mặt hãnh diện của mẹ khi thấy cô xinh xắn trong chiếc áo
màu beige ôm bó người, Liz tự biết mình xinh đẹp. Mà cô không những đẹp lại còn
nết na nữa. Cô ít khi làm cha mẹ
buồn lòng. Dù được cha mẹ thương, cưng chiều, Liz không vì thế mà ham
chơi, lêu lỏng, trái lại cô chăm chỉ học hành. Cô còn tình nguyện làm việc cho
một nhà thương hai lần một tuần để giúp những em bé bị tật nguyền, mà cha mẹ
của các em, hoặc là bận làm việc, hoặc là không màng ngó ngàng tới các em.
Tối hôm đó, mẹ cô đã đưa cô và hai cô bạn
thân của cô đến khách sạn Hilton để dự party. Mẹ hẹn sẽ trở lại đón khoảng quá
nửa đêm, khi dạ vũ gần tàn.
Liz cùng hai cô bạn vui vẻ bước vào phòng dự tiệc. Trong
phòng chật ních những người, ba cô len lỏi vào giữa đám đông. Liz gặp những
khuôn mặt quen thuộc từ trường, các bạn xúm lại chuyện trò. Các cô thoải mái
cười đùa, khiêu vũ. Vài ba đứa con trai cùng trường cũng nhập bọn. Sau một bài
khiêu vũ, Liz trở lại bàn, uống nốt ly nước ngọt dở dang. Rồi
từ đó nàng không còn nhớ gì nữa cho đến lúc tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm
trong bệnh viện.
Theo lời mẹ kể lại thì lúc bà đến đón con
gái, bà đã không thấy Liz đâu cả. Hai cô bạn Liz cho biết là
họ cũng không tìm được Liz. Sau đó mọi người ra công đi tìm, và cuối
cùng họ thấy Liz nằm bất tỉnh ngoài vườn sau của khách sạn. Bác
sĩ ở bệnh viện cho biết là Liz đã bị cưỡng hiếp sau khi bị cho uống một loại
thuốc kích thích thật mạnh.
Sau đêm đó, Liz đã bị có thai
với một người mà Liz không hề biết mặt. Bố mẹ Liz đề nghị giải pháp phá thai, nhưng Liz từ chối. Nàng yêu cầu bố mẹ cho nàng được
sinh đứa bé và sẽ giao cho viện mồ côi, rồi sẽ trở lại trường để bắt đầu những
năm đại học. Năm thứ ba đại học, Liz gặp
*
Ông Lawrence nước mắt dàn dụa khi nghe vợ kể lại câu chuyện năm
nào. Ông không bao giờ có thể ngờ được cái bồng
bột của thời niên thiếu mà ông gây ra, lại mang đến hậu quả khủng khiếp như hôm
nay.
Năm đó, ông đang học năm thứ hai của đại học
Harvard, theo lời mời của một người bạn, ông bay về
Suốt mùa hè năm đó ông ngay ngáy lo sợ, nhưng
qua hết mùa hè, ông trở lại Harvard, vẫn không có gì xảy ra. Nhưng
câu chuyện đêm đó luôn ám ảnh ông. Ông không nhớ được khuôn mặt cô gái
mà mình đã lấy mất sự trong trắng đời con gái của cô ta.
Hai năm sau, khi đang trình luận án tiến sĩ ở đại học
*
Bà Liz càng lúc càng kinh ngạc khi nghe chồng kể lại câu chuyện
của hơn hai mươi năm về trước. Làm sao bà có thể ngờ được
người chồng của mình lại chính là người đã lấy mất cuộc đời con gái của mình
trong một buổi dạ tiệc năm xưa!!! Làm sao bà có thể ngờ được ông là cha của đứa
bé mà bà đã phải ký giấy cho cô nhi viện, trước khi nó
sinh ra đời. Bà sửng sốt quay sang nhìn Larry, người con rể mà bà đã
thương quý ngay lần đầu tiên Laura mang về giới thiệu với ông bà. Định mệnh sao lại khắc nghiệt như thế này? Bà phải làm sao để giải quyết mọi chuyện? Nước mắt bà dàn dụa làm mờ đi khuôn mặt của
chồng và con đang sửng sốt nhìn bà.
Nhân Quả 2:
Tôi
nói với chị là tôi không tin câu "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước,"
khi chị tìm tôi để tâm sự về cháu Thuý, con gái đầu lòng của chị. Thuý xa nhà được hai năm nay, mới đầu cháu ở
trong dorm, nhưng lên năm thứ hai, cháu thuê nhà ở chung
với vài cô bạn gái của cháu.
Sáng hôm đó, chị gọi phone cho cháu, người bạn cùng nhà cho biết
là cháu mới vừa rời khỏi nhà. Nhưng mới tối hôm trước, chị đã
gọi khi quá nửa đêm, thì bạn cháu nói là cháu chưa về. Lo sợ lẫn nghi ngờ, chị
tìm tôi để nói chuyện. Tôi can chị, khi chị đòi lái xe
lên Stanford để biết sự tình ra sao. Chị nói nếu không đi, ở nhà cứ
tưởng chuyện này, chuyện nọ, chắc chị sẽ điên cái đầu. Tôi trấn an chị rằng:
"Mọi sự đều có xếp đặt cả, chị có lo cũng không ích gì, mà lái xe cả năm giờ đồng hồ, nhỡ lên đến nơi, tìm không thấy cháu,
chị lại lo thêm..." Tôi nói, thì tôi nói; chứ chị lo, thì chị vẫn lo thôi!
Chị
vừa mới trải qua một biến cố lớn trong đời chị, mà theo
chị, thì cũng "không đến nỗi đau thương lắm." Nhưng
tôi biết chị rất "đau" vì chuyện này. Hai năm trước, tự dưng
một buổi tối, sau khi ăn cơm xong, chồng chị nói là anh muốn ly dị. Chị hỏi lý
do gì mà anh muốn như vậy, anh nói, anh muốn "tự do". Khi chị gọi tôi
để nói chuyện, tôi đã không tin "tự do" là lý do chính. Tôi hỏi chị
coi trong sở làm của anh có cô nào trẻ đẹp hay có bà nào "độc thân tại
chỗ" không. Chị đã rất lạc quan nói là chị tin anh muốn có "tự
do" thật. Và sau đó chị không nói chuyện này với tôi
nữa. Một tháng sau khi anh dọn ra riêng để tìm "tự do", chị
bắt gặp anh chở một người đàn bà khác đi movie, khi chị đưa hai con đi
xem một cuốn phim mới vào một buổi chiều chủ nhật.
Sau
lần gặp gỡ đó, chị đã bằng lòng tiến hành thủ tục ly dị. Và mãi đến lúc đó, chị
mới thật sự biết được "con người thật" của anh, danh từ của chị.
Cuộc
ly dị, theo tiếng người bản xứ, là một "dirty divorce", theo
tôi, thì không lịch sự chút nào. Mỗi lần ra tòa, mỗi lần gặp luật sư, là chị
mất không biết bao nhiêu nước mắt trước và sau đó, nhưng khi gặp anh, chị vẫn
chứng tỏ cho anh thấy là chị rất can trường để chống đỡ. Tôi
thương chị xót xa, chỉ lo chị sẽ "gục" nửa đường. Trong khoảng
thời gian này, luật sư của chị đã tìm ra nhiều manh mối, mà theo
chị, thì thật là "ghê tởm."
Những
mối tình lén lút của anh bên cạnh cuộc hôn nhân của anh chị đã được thám tử tư
của chị phanh phui trước toà, làm anh tức giận, nên tìm cách trả đũa thật là
nhỏ nhoi, hèn hạ. Anh đã đưa ra những chuyện không có thật để
làm xấu chị và gia đình chị. Những ân nghĩa gia đình chị dành cho anh,
được anh "trả ơn" bằng sự vu oan, dối gian để làm nhục lại.
Anh
từ chối cấp dưỡng cháu Thúy, vì theo anh thì: "Mười tám tuổi là phải tự lập," vì hồi xưa, lúc
mười tám tuổi, anh đã tự lo cho anh, thì bây giờ không có lý do gì anh phải lo
cho Thúy cả. Chị đã phải bán nữ trang, nhà cửa để lo cho con gái vào Stanford.
Từ bé, Thuý học rất giỏi, mỗi mùa hè, cháu đều
đi học những lớp đặc biệt của các trường đại học tổ chức. Năm cháu mười ba
tuổi, tôi ghé thăm cháu tại đại học Cal Tech, vào một ngày đẹp trời của
mùa hè miền nam
Cũng
mùa hè năm đó, khi tôi gặp chị, chị nói chuyện về cháu với sự hãnh diện của một
người mẹ có con gái đẹp, ngoan, học giỏi. Chị hoàn toàn không
biết là cháu đang có người bạn khác phái, rất thân. Chị bảo là cháu với
chị rất thân nhau, cháu không bao giờ dấu chị một chuyện gì cả. Chị còn than phiền là những đứa bạn của cháu không ngoan được như
cháu, mới mười ba, mười bốn tuổi, mà đã có bạn trai, không lo học hành.
Tôi chỉ biết ngồi im, không góp ý. Thật tình lúc đó, tôi hơi khó chịu, vì thấy
chị có phần quá đáng khi nói về những đứa trẻ khác.
Quen
biết chị đã lâu, nhưng lúc nào tôi thấy chị cũng không thật lòng với tôi cho
lắm. Lúc đầu, khi biết chị không "thật" với tôi, tôi cũng hơi buồn
lòng, nhưng dần dần, tôi cũng quen đi, nên không lấy đó làm buồn nữa. Có lẽ,
nhiều lúc chị quên là tôi đã biết anh trước khi anh cưới chị, nên chị đã thao
thao bất tuyệt những chuyện không đúng như những gì tôi đã biết. Dù vậy, tôi
cũng chỉ biết ngồi nghe chị tâm sự, như là một sự thực tập hạnh lắng nghe của
Bồ Tát Quán Thế Âm, mà tôi đang hành trì.
Chuyện
quá khứ của anh, chuyện hiện tại của anh chị, có lúc cũng làm tôi phân vân, khi
thấy hai con của anh chị ngày mỗi lớn, đang trải qua những cuộc tình đầy trắc
ẩn. Chị không biết là cháu Thúy vẫn gọi cho tôi, mỗi khi cháu cần người nghe
chuyện. Cháu cần nói, cháu gọi. Tôi cần khuyên, cứ khuyên. Thật
ra hai việc không có liên hệ gì với nhau lắm. Có lần tôi hỏi cháu sao
không nói cho chị nghe, cháu bảo là: "mẹ khó lắm cô, ai mẹ cũng chê, mẹ mà
biết con có boyfriend là chết."
An Nghiêm