Tôi viết bài này để gửi đến anh HGT,
người hàng xóm của tôi ở phố Triệu Việt Vương, Hà nội. Anh T.
ơi, anh có thấy chúng ta sống với dĩ vãng quá nhiều không nhỉ?
Bài của Hùng Nguyễn
Hôm nay có
phải trời như chớm ngả sang thu. Thời
tiết hơi lành lạnh so với mấy ngày nóng bức trước đây. Sáng sớm thức dậy, đứng nhìn qua cửa sổ thấy bầu trời vẫn xanh và
trong vắt. Trong sân sau nhà, ở cuối bãi cỏ xa xa, những cánh hoa hồng
vẫn rực rỡ khoe sắc thắm. Cây cổ thụ bên nhà hàng xóm chiã cành sang, lá vẫn
xanh tươi, không chiếc lá vàng. Nhưng sao tôi thấy trong lòng như có chút gì vướng
víu, man mác buồn vu vơ như đang chìm mình trong cái dịu dàng của mùa thu
thường đem đến cho tôi. Thu đã đến với đất trời hay mới chỉ đến trong lòng tôi
với cái buồn nhè nhẹ.
Sầu thu lên
vút, song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.
(Huy Cận)
Không biết lúc này tôi có đang giống như
những cô thiếu nữ của nhà thơ Xuân Diệu hay không ?
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Tôi chợt nhớ đến những mùa thu miền Bắc.
Mùa thu miền Bắc không có nhiều lá vàng rực rỡ như ở đây, ngoại trừ với cây
bàng lá vàng lá đỏ, còn đa phần là những mầu héo úa để chờ đợi rơi rụng vào mùa
đông. Không có nhiều lá thu rực rỡ, nhưng có gió heo may
lành lạnh, không đủ lạnh để mặc áo bông, nhưng đủ lạnh để mặc chiếc áo len mầu
mong mỏng. Các cô thiếu nữ
điểm tô cho thu bằng những chiếc khăn "san", theo gió
nhẹ, bay phủ bờ vai.
Mùa thu là mùa của
sen trắng sen hồng đua nhau mọc trong hồ sen. Cô thiếu nữ với chiếc yếm hồng
chèo chiếc thuyền nhỏ, lách lượn trong hồ để hái nụ hay hoa sen đem ra chợ bán.
Hình ảnh này cũng là hình ảnh đẹp và phổ thông như một biểu tượng của muà thu. Mùa thu là mùa của
cốm, mà cốm nổi tiếng nhất là cốm của
làng Vòng, nôm na gọi là cốm Vòng, có mầu xanh biếc của ngọc lại dẻo và
thơm, thơm mùi lúa non lẫn mùi lá sen dùng để gói cốm. Người ta ăn hồng hay chuối với cốm. Hồng là loại quả hiếm quý ở miền
Bắc, thường chỉ mua để biếu nhau. Mùa thu là mùa của
rươi được gánh đi bán trên đường phố. Rươi là món ăn được ưa thích thường được
rán với trứng, trộn lẫn tí vỏ quýt thái nhỏ làm gia vị, rươi có vị bùi và beo
béo. Món ăn này còn được gọi là chả rươi.
Nhưng mùa thu
không phải là mùa để ăn mà là mùa dành cho loài người cái êm dịu của thiên
nhiên, lòng người rất dễ dàng rung động với nó. Thu thường hay mang cho ta
những nỗi buồn vu vơ, trầm trầm như những tiếng thủ
thỉ của lá cây xào xạc trong cơn gió nhẹ. Chẳng thế mà bao nhiêu thi sĩ và nhạc
sĩ đã để lòng mình rung động với thu và đã cống hiến cho đời biết bao nhiêu
tuyệt phẩm về thu "vượt cả thời gian lẫn không gian" .
Trong văn chương Việt nam, nói về thu, ta không thể không kể đến ba bài thơ của cụ Nguyễn
Khuyến đó là Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Ba
bài thơ này đã được đưa vào chương trình học của học sinh bậc trung học trước
đây.
Trong 3 bài thu
trên, bài Thu điếu (mùa thu ngồi câu cá) là bài được nhắc nhở đến nhiều hơn cả.
Ao thu lạnh lẽo
nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng nước theo làn hơi gợn tý,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt ,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tưạ gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Với tôi, chỉ
có bài thơ này mới nói lên hết được cái cảnh, cái tình của mùa thu miền Bắc. Trong cái không gian bao la ở phía trên với:
Tầng
mây lơ lửng
trời xanh ngắt
Cảnh vật bên dưới thì yên lặng buồn tênh
với:
Ao thu lạnh lẽo
nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Chiếc thuyền con chứa đựng hình ảnh của một
ngư ông:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Và bên cạnh đó là cái cô quạnh của một:
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Mọi thứ tĩnh lặng chỉ trừ một chút lay động
nho nhỏ rơi vào cái tĩnh
Sóng nước theo
làn hơi gợn tý,
hay :
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cái hay là ta cảm nhận ngay được là hình
ảnh lá vàng bay trong gió nhẹ, vì lá quá nhẹ, ắt hẳn phải là lá trúc mà cụ đã
giới thiệu trong bài thơ, nên mới có thể bay vèo. Và chính cái bay vèo của đám
lá nhẹ được cụ Nguyễn Khuyến sử dụng làm đối trọng của sự tĩnh mich, để cảnh vật không trở nên buồn chán. Và cũng chính
những đám lá này nó tạo nên được cái âm thanh xào xạc, âm thanh quen thuộc của
mùa thu, âm thanh này lại làm tăng thêm cái yên tĩnh
lên một cách linh động. Bức tranh của cụ chỉ toàn mầu xanh được điểm tô bằng những chiếc là vàng
bay, hình ảnh thật thu biết chừng nào .
Từ hình ảnh, mầu sắc đến âm thanh được cụ
diễn tả thật tài tình bằng những ngôn từ giản dị, mộc mạc và khung cảnh cụ dựng
nên này ta có thể gặp bất cứ ở đâu tại miền Bắc nước ta. Nếu cụ chỉ cần thêm một tý mầu xám của mây
với chút mầu
trắng đục của mưa bụi thì cảnh vật này sẽ trở nên u ám có khi đến thê lương của
một muà đông.
Để
trở về với thời gian gần gũi với chúng ta hơn, hãy thử
đọc vài bài thơ của những nhà thơ "tiền chiến".
Nếu nhớ đến thu mà
không nhắc đến bài thơ "Tiếng Thu" của thi sĩ Lưu Trọng Lư thì thật
là một thiếu sót.
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hinh ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu sào sạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
So với hình ảnh "chân quê" trong
thơ của cụ Nguyễn Khuyến thì hình ảnh thu của LTL có
tính cách "thơ" hơn với con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng
khô. Hình ảnh của "thơ" đôi khi không phải là hình ảnh thực tế xẩy ra
chung quanh ta. Tuy nhiên bài thơ "Tiếng
Thu" của LTL vẫn là một trong những bài thơ mà tôi thich nhất trong những
thơ nói về thu sau này.
Thơ của LTL thời tiền chiến là như thế. Năm 1975, tôi đọc một bài thơ của thi sĩ
LTL trên báo, chỉ thấy toàn ca tụng ngô và sắn.
Nếu ta nghe thấy trong thơ LTL có tiếng lá
cây xào xạc thì ta cũng thấy một buổi chiều thu với
cây hiu quạnh ở vùng cao của Huy Cận:
Sầu thu lên vút
song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Non sông ngây cả buổi chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia
Trong khi thơ của Chế Lan
Viên thì tha thiết với thu biết chừng nào
Chao ôi ! mong nhớ, ôi mong nhớ !
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn.
Cái thu trong thơ
Vũ Hoàng Chương thì lại tiêu cực và yếm thế làm sao.
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết
Một ván cờ khuya ngả bóng chiều
Ai khóc đời ai trên bấc lụi
Đây mùa thu tới lửa dần thiêu.
Khác với VHC, thơ của Xuân Diệu có vẻ êm ả,
nhẹ nhàng mà vẫn không kém phần tha thiết. Thơ Xuân Diệu ngày
xưa, chẳng có cô cậu học trò nào mà không chép vài bài vào trong tập thơ của
mình và ép vào đấy những cánh hoa khô.
Gió thu hoa cúc
vàng lưng dậu
Hay những vần thơ:
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đầu nghê như nước, lạnh trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận :
Trăng nhớ Tầm dương, nhạc nhớ người.
Nói
đến Xuân Diệu phải nói đến những vần thơ yêu. Những vần
thơ được chép đi chép lại nhiều lần của tuổi học trò, mượn lời thơ để tỏ tình với cô
em cùng lớp:
Anh
một mình nghe tất cả buổi chiều
Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình nhớ ảnh
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi
Anh nhớ em của ngày tháng xa xôi
Nhớ đôi môi đang cười ở cuối trời
Thơ yêu của XD là như thế đấy.
Trên trời xanh vài cụm mây trắng hờ hững
bay, hờ hững bay vì cứ bay và bay mãi không ngừng. Ngàn
năm mây trắng bây giờ còn bay.
Trong cái yên tịnh của sáng nay, tôi đang
như nghe thấy tiếng nhạc lởn vởn đâu đây. Tiếng hát réo rắt như lẫn chút gì ai
oán của ca sĩ Ngọc Hạ trong bài "Buồn Tàn Thu" của nhạc sĩ Văn Cao
đang đưa tôi đi xa vào cõi không. Giọng ca của người ca sĩ
mới xuất hiện này sao điêu luyện quá. Cô diễn tả hay đến độ nếu Văn Cao còn sống hẳn sẽ
hài lòng và cám ơn Ngọc Hạ vì cô đã có thể truyền đạt được hết cái hay của bản
nhạc lẫn tâm sự của cụ đến người nghe. Với bài hát này, sau Ngọc Hạ còn ai nữa nhỉ ? ...