Điện hạt nhân không kinh tế
mà
còn nguy hiểm cho đất nước !
Nguyên cố vấn Nha kinh
tế, dự báo, chiến lược EDF Paris
GS. Trường Đại học Bách khoa Grenoble
GS. Viện Kinh tế Chính sách Năng lượng Grenoble
Tiếp
theo bài « Phát triển điện hạt nhân ở Việt
Theo tôi, nước ta không có vấn đề cân bằng năng lượng đến
2030 vì tài nguyên nội địa đa dạng và
tương đối còn khá phong phú so với nhiều quốc gia khác. Lẽ cố nhiên, chúng ta phải
có chiến lược tiết kiệm, triệt đễ sử dụng tối ưu, hợp lý, có hiệu quả năng
lượng và đồng thời nổ lực phát triển chương trình năng lượng tái tạo. Hiện nay, con số tổng kết về phung phí, thất thoát rất quan trọng;
nếu tiết kiệm được thì đó là một nguồn năng lượng vô cùng quý báu.
Theo VNLNTVN thì :
1. Nhà máy ĐHN đầu tiên ở Ninh Thuận sẽ có 2 tổ máy (2 x
1 000 MW). Công suất này lớn, sẽ khó khai thác. Chúng ta sẽ phải mua lò
thế hệ II (PWR, BWR, VVER, RBMK) đã lỗi thời hay sao?
2. Năm 2020, nước ta sẽ thiếu từ 36-65 tỉ kWh và năm 2030, từ
119-188 tỉ kWh.
Mỗi năm, 2 lò 1000MW chỉ cho trung bình 12
tỉ kWh, như vậy những tỉ kWh kia sẽ được sản xuất bằng nhiên liệu gi ? Chẳng lẽ ta phải xây cất một loạt từ 6 đến 11 lò cho
năm 2020 và đến 2030 ta phải có từ 20 đến 31 lò ? Cả một công nghiệp ĐHN
đồ sộ, và với phương tiện nào ? Lý luận như thế
để chứng minh rằng ĐHN không giải quyết vấn đề cân bằng năng lượng cho đất
nước.
Về an ninh cung cấp năng lượng cũng khó thực hiện được, vì
ta sẽ phải tiếp tục lệ thuộc lâu dài với ngọai quốc, về thiết bị, nhiên liệu,
nhất là Uranium làm giàu ra 3,5% 235U, việc xử lý nhiên liệu, lưu
giữ chất thải phóng xạ, chưa kể phần chuyên viên kỹ thuật...
Mua tích trữ nhiều năm nhiên liệu hạt nhân sẽ không kinh tế
(tiền ứng đọng không sinh lời), nó sẽ ảnh hưởng không tốt đến giá điện. Ngoài ra, ta cũng chưa đủ điều kiện để làm chủ một số khâu
sản xuất nhiên liệu : từ khi trích U ở các mỏ ra
đến lúc chế tạo nhiên liệu đưa vào lò. Rất ít nước trên thế giới có thể bỏ hàng
tỉ USD để đầu tư vào nhà máy làm giàu U. Chương trình ĐHN của EDF, nhất nhì thế
giới, đã thu hút 200 tỉ USD. Pháp phải huy động một
lực lượng rất lớn đầu tư vào tất cả các khâu của chu trình kín (cycle fermé). Tuy nhiên, tỉ lệ độc lập vẫn
không quá 50%.
Cho nên, nhập khẩu nhiên liệu hay năng lượng có sao đâu ? Về phương diện kinh tế, vấn đề an ninh và độc lập năng
lượng, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, không còn ý nghĩa như xưa nữa.
II. «ĐHN không
nhất thiết đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước»
Phát triển ĐHN không tăng cường mạnh tiềm lực khoa học, công
nghệ và công nghiệp quốc gia như ta tưởng. Nó là một lĩnh vực riêng biệt vì
tính G an toàn (nên đòi hỏi rất nhiều kinh phí). Nó
chỉ là một phần của ngành năng lượng, nhưng nó sẽ thu
hút hết nguồn tài chính quốc gia. Ta sẽ không còn đủ sức đầu tư vào các lĩnh
vực then chốt : giáo dục - nghiên cứu, y tế và xã hội.
Lấy ví dụ điển hình ở Trung tâm nghiên cứu hạt nhân Grenoble thành lập năm 1956
mà tôi được biết rõ, người ta biết chuyển hướng rất sớm, đã sang nghiên cứu từ
lâu ngành micro (10-6m) điện tử và gần đây nano (10-9m) công nghệ (50 ngàn lần nhỏ hơn
sợi tóc!) Các lò nghiên cứu hạt nhân Mélusine, Siloé và Siloette của Trung tâm
này (nay gọi là CEA) đang phải tháo gỡ (tốn gần 200 triệu USD). Nhắc lại đoạn đường 50 năm qua để độc giả nhìn nhận chiến lược
ngược chiều, sai lầm, nếu ta lựa chọn ngành ĐHN làm nền tảng công nghiệp xứ sở.
Làm ĐHN sẽ đưa nước nhà vào một con đường bế tắc với bao
chướng ngại vật. Mỗi nhà máy kẹt ít nhất 100 năm vì phải chờ
50 năm mới tháo gỡ đươc. Nên nhớ rằng giới khoa học đã
đặt câu hỏi có nên tiếp tục một kỹ thuật già nửa thế kỷ (kỹ thuật PWR xuất hiện
cùng một lúc với tầu ngầm Nautilus của Mỹ năm 1954). Nhiều
chuyên gia cho rằng việc sử dụng chất phân rã (matière fissile) để làm
điện không phải là một thượng sách. Cái may của nước ta, cũng như gần
170 nước khác, là chưa kẹt vào đó. VNLNTVN muốn làm chủ ngành
ĐHN để làm gì? Phí công, mất của, mà còn nguy hiểm cho con cháu.
Chúng ta không nên lạm dụng danh từ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Tiến triển khoa học ngày nay và việc toàn
cầu hóa đã làm nhiều nước (trong đó có Pháp) phải dẹp dần một số công nghiệp
không có triển vọng.
Nói rằng các cường quốc đều thông qua chương trình phát
triển ĐHN để nâng cao tiềm lực khoa học, công nghệ và công nghiệp quốc gia thì
là quá đáng. Sự thật, thừa nhận rằng các nước có bom nguyên tử đều bắt đầu bằng
chương trình ĐHN, để có sự hợp tác quốc tế công khai về mặt kỹ thuật cũng như
tài chính thì đúng hơn.
III. «ĐHN không giải quyết
vấn đề môi trường trong phát triển năng lượng bền vững»
Nhiều nhóm thế lực (lobby) quốc tế đã đầu tư quá nhiều tỉ
USD vào lĩnh vực hạt nhân nên lợi dụng việc chống hiệu ứng nhà kính để cứu vãn
tình trạng khủng hoảng đã kéo dài từ 25 năm nay, bằng cách nêu khẩu hiệu ĐHN
góp phần giải quyết vấn đề môi trường. Sự thật không phải
vậy. Không ai phủ nhận vai trò ĐHN trong vấn đề CO2, nhưng
đảm bảo rằng ĐHN là một nguồn năng lượng « sạch » thì thật là phi lý.
Thí dụ Tchernobyl với
trên 3 triệu nạn nhân (trong số đó có hàng chục ngàn người thiệt mạng, hàng
trăm ngàn người bị thương, lâm bệnh tật suốt đời). Thông tin này (ít được phổ
biến) do cố vấn sứ quán
Theo ông Viện trưởng (bài kỳ hai 20/05) : « sau
năm 2050 chúng ta mới phải lo chôn cất chất thải phóng xạ dài ngày. Lúc đó chắc
chắn đã có công nghệ mới để xử lý, biến chất thải dài ngày thành ngắn ngày hoặc
không còn phóng xạ ». Tôi thì lo ngay bây giờ. Suốt nửa thế kỷ, khoa học chưa tìm
ra giải pháp, làm sao dám tin tưởng ở sự thành công trong tương lai? Bảo rằng chất thải sẽ không còn phóng xạ là coi rẻ những hiện tượng vật lý. Với tinh thần
trách nhiệm, ta không thể để con cháu thừa hưởng cặn bã độc hại, mặc kệ cho
chúng tùy nghi xử lý?
Vài lò hạt nhân ở Việt
IV. « Xu hướng phát triển ĐHN
trên thế giới hiện nay không thuận lợi cho Việt
Theo tôi, thị trường ĐHN quốc tế còn lu
mờ. Rất nhiều chuyên gia cùng cho rằng cuộc khủng hoảng sẽ
kéo dài đến 2020. Bằng chứng là tỷ lệ 6,5% của
điện hạt nhân trong tổng kết nhu cầu năng lượng sơ cấp toàn cầu sẽ không thay
đổi từ đây đến đó. Theo cơ quan năng lượng quốc tế, tổng công
suất ĐHN thế giới sẽ hạ xuống còn 320 000 MW (năm 2020) thay vì
358 000 MW (năm 2000). Hiện nay, toàn cầu có 440 lò. Trong 4 năm
qua, chỉ 32 lò đang được xây cất, phần lớn ở Châu Á. Con số nhỏ bé này nói lên
sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng.
Ở Châu Âu, nhiều nước như Đức, Thụy Điển, Bỉ, Ý, Anh, Tây
Ban Nha, Thụy Sĩ … đều đã tuyên bố rút lui hoặc không hưởng ứng sự phát triển
ĐHN nữa. Pháp, tuy có sự chống đối mạnh, nhưng vì không thể đợi lò thế hệ IV
(2035-2040) để lần lượt thay thế các lò
đã lớn tuổi phải ngưng vận hành, sẽ bắt buộc bỏ ra 3 tỉ USD để xây cất lò mẫu
EPR thế hệ III (1 600 MW) vào năm 2007. Phần Lan
cũng sẽ mua một lò này.
Về phần nước Mỹ, gần 30 năm nay, không có xây dựng thêm lò
nào cả. Vì nạn thiếu điện ở
Californie và nhiều nơi khác, chính phủ đã lên tiếng muốn trở lại phát triển
ĐHN. Nhưng ngoài những ràng buộc về luật lệ, tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, khủng
bố, thời gian
xây cất, còn có sự chống đối của dân chúng. Hai chướng ngại
vật lớn nhất của nhà đầu tư Mỹ là kinh tế và tài chính. Ai dám bỏ tiền ra khi mà giá ĐHN cao hơn 60% giá điện chạy than hay
khí (NRDC Mỹ, 04/2004)? Ai chịu đầu tư nếu phải đợi tối thiểu 7, 8 năm trời
mới thu được vốn? Thị trường ĐHN không phải là thị trường
ngắn hạn. Ngân hàng không dại ký giao kèo bảo hiểm về những rủi ro trong
thời gian vận hành và nhất là tai biến, khủng bố. Vì
những lý do trên, công suất đặt hạt nhân của Mỹ đến 2020 sẽ hạ xuống chứ không
tăng lên được.
Những khó khăn vừa nêu trên không phải chỉ dành riêng cho
nước Mỹ mà thôi. Thêm
vào đó, sự mở cửa thị trường điện lực càng làm cuộc khủng hoảng trở nên gay
gắt. Vì điện không tích trữ được (non stockable), sản
xuất ra là phải tiêu thụ ngay. Nếu không có nhà nước thì ai lo kế hoạch
đầu tư dài hạn, ai chú trọng đến vấn đề an toàn?
Ở Việt Nam, ĐHN không thể kinh tế, vì trong giá điện phải
tính các chi phí liên hệ đến việc xử lý nhiên liệu, an toàn, bảo hiểm, lưu giữ
chất thải phóng xạ, tháo gỡ. (EDF phải để dành 20 tỉ USD cho
khâu này vì tháo gỡ một nhà máy ĐHN tốn khoảng 330 triệu USD).
Dù muốn dù không, tất cả các nước trên thế giới đều phải,
song song với việc áp dụng chính sách tiết kiệm và gia tăng hiệu suất, triệt để
phát triển năng lượng tái tạo. Nhân loại phải lợi dụng « giai đoạn chuyển
tiếp này (từ đây đến 2030) » để chuẩn bị thay thế một cách kinh tế các
nguồn năng lượng hóa thạch (dầu, khí, than…) bởi các nguồn thông lượng (énergie de
flux) tức là năng lượng tái tạo. Nước Đức, tuy đã có 19 lò hạt nhân (30% ĐHN)
và mặc dù mỗi năm phải nhập khẩu hàng chục, hàng trăm tấn nhiên liệu đã can đảm
hy sinh ĐHN. Đức dẫn đầu về năng lượng gió (trên 15 000
MW) và đă có nhiều thành tích khả quan với năng lượng mặt trời. Đây là
gương sáng chói cho toàn cầu. Chiến lược dài hạn của Anh Mỹ, đến chân trời 2050, không trông
cậy (hoặc rất ít) vào ĐHN mà lại đặc biệt chú trọng đến việc sản xuất hydrogène
từ các nguồn hóa thạch và kỹ thuật giam giữ (séquestration) carbone, gia tăng
hiệu suất năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo (mặc dù có vấn đề về số
lượng, môi trường và kinh tế).
Việt Nam ta nên tránh
ĐHN, vì không kinh tế và vì hậu quả chiến tranh còn gieo bao đau thương, trên lãnh
thổ ta rải rác còn nhiều chất độc (màu da cam chẳng hạn), chúng ta không nên
tặng thêm cho con cháu chất thải phóng xạ ngàn năm còn nguy hiểm !