Trở về trang Mục Lục

Gói Quà Đầu Năm

Thơ chuyển từ truyện ngắn của PHẠM TÍN AN NINH
Người chuyển thơ NGUYỄN SÁU

***

Bên triền núi, rợp bóng cây,
Một ngôi Chùa nhỏ, nằm ngay trên đồi.
Rất nhiều bậc cấp nên tôi,
Phải ba lần nghỉ, đến nơi cổng Chùa.

Vườn đầy vạn thọ đang mùa,
Hoa tươi sắc thắm, gió lùa ngát hương.
Nhà khách bằng gỗ, dễ thương,
Bên ngoài tượng Phật, thế đương ngồi thiền.

Lồng trong khung cảnh thiên nhiên,
Có hòn non bộ, Phật, Tiên, thú cầm…
Cây bồ đề rợp bóng râm,
Lá cành cắt xén, được chăm kỹ càng.

Một vùng tĩnh mịch, nghiêm trang,
Vẳng nghe tiếng mõ, nhẹ nhàng lời kinh.
Dầu không tâm Phật trong mình,
Bỗng dưng tôi cũng yên bình hẳn ra.

Chú Tiểu rót nước mời trà,
Vì tôi đã tới hôm qua một lần,
Nhưng Thầy đi vắng bất thần,
Hôm nay chú Tiểu không cần hỏi thêm.

Nói Thầy đang còn đọc kinh,
Cho đầu năm mới, xin trình Bà thông.
Khoảng mười phút nữa mới xong,
Lần đầu gặp mặt, thấy lòng nôn nao…

Người là ân nhân năm nào,
Cứu chồng tôi khỏi rơi vào hiểm nguy
Lòng tôi luôn mãi khắc ghi,
Về lòng đức độ, từ bi của Thầy.

*
 *     *

Chuyện hơn hai mươi năm rồi,
Lúc tôi còn nhỏ, đang thời học sinh.
Huyện An Túc được an bình,
Nhờ vào lực lượng đồng minh đóng gần.

Rồi đồng minh rút bất thần,
Cho nên dân chúng có phần lo âu.
Người trong đạo tổ chức mau,
Những đoàn tự vệ, ngõ hầu tiếp lo.

Canh phòng cùng quận giữ cho,
An ninh đang thiếu phòng hờ tấn công.
Vì không lực lượng canh phòng,
Của đơn vị bạn, ngay trong lúc này.

Ba mươi tết, tỉnh cho hay,
Có đơn vị mình đến thay Mỹ, Hàn.
Nghe tin cả quận hân hoan,
Cùng nhau tổ chức liên hoan đón chào.

Quà xuân lại được mến trao,
Các anh chiến sĩ, với bao ân tình.
Các anh phải xa gia đình,
Trong ngày tết, giữ an ninh quận nhà.

Trường tôi tổ chức gói quà,
Nên tôi hăng hái tham gia nhiệt tình.
Góp vào hai gói phần mình,
Giống nhau y hệt, công bình cả hai.

Quà gồm bánh, mứt, khăn tay,
Tự tôi thêu lấy, không sai tí nào.
Cộng thêm bức thư chép sao,
Từ bài luận văn hôm nào của tôi.

Lời văn nồng ấm cuốn lôi,
Của người em gái yêu đời hậu phương.
Thêm vào tên, lớp, và trường,
Gói quà là cả tình thương chân thành.

Cám ơn hy sinh các anh,
Ngày đêm canh giữ yên lành thôn trang.
Nhìn hai gói đã sẵn sàng,
Mỉm cười, thầm nghĩ hai chàng nào đây?

Người hân hạnh được quà này,
Chắc là sẽ nói: “thơ hay lạ thường”
Của người em gái hậu phương,
Viết cho anh lính can trường xông pha…

Ban đầu lệnh trường đưa ra,
Các em trực tiếp tặng quà mấy anh.
Chúng tôi hớn hở chọn nhanh,
Áo dài mình thích để dành mặc đi.

Nhưng rồi lại phải đình vì,
Đoàn quân sắp đến, gặp thì giải vây.
Những đồn bót đã không may,
Bị đang vây hãm ba ngày chưa thôi.

Thế là uỷ lạo phải hồi,
Quà gom hết lại, chờ thời giao sau.
Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau,
Vì không còn dịp nào đâu trao quà…

*
 *     *

Nam Mô A Di Đà Phật… xin chào Bà,
Chắc Bà đợi tôi lâu lắm phải không?

Tôi đang suy nghĩ lang bang,
Tiếng Thầy làm dứt ý đang tuôn trào.
Đứng lên, tôi chắp tay chào,
Muốn nhìn kỹ mặt, nhưng sao ngại ngùng.

Cúi đầu suy nghĩ mông lung,
Sợ không lễ phép, nên dừng lại ngay.
Lắng nghe lời Thầy trình bày:
Cổng Tam Quan, nhà khách, nay thành hình,

Giúp cho chùa thêm đẹp xinh,
Cùng nhiều bậc cấp đưa mình đến đây.
Đều do công đức cao dày,
Của Ông Bà hết, xin đầy phước duyên”.

Rồi Thầy lên tiếng tiếp liền,
Xin Bà đi viếng trọn nguyên cảnh chùa.
Theo Thầy, tôi nói phân bua,
Bao nhiêu công đức, cũng chưa thấm gì.

Ơn Thầy ra sức cứu nguy,
Chồng tôi năm ấy, không thì còn đâu?.
Như là phép lạ nhiệm mầu,
Được Thầy cứu giúp, như hầu tái sanh…

Mô Phật!!
Giúp người là chuyện tu hành,
Sao Bà lại biến nó thành công ơn!!

Nhìn dáng đi, tôi hơi nghi,
Mặt nhìn thấy giống, dáng thì lại sai.
Chắc thời đi lính hăng say,
Bây giờ tu tập, dáng Thầy thảnh thơi?

Tôi thầm suy nghĩ thế thôi,
Nên chưa xác quyết là người tôi quen.
Thầy dừng ở cổng Tam Quan,
Chỉ về phía biển, tôi quan sát liền.

Thấy nhiều tảng đá bên triền,
Phía gần bờ biển, có nguyên khu rừng,
Thầy cho tôi biết là vùng,
Thầy nhìn thấy cảnh khốn cùng chồng tôi…

*
 *     *

Chồng tôi là thầy giáo thôi,
Dạy khu người Thượng, và rồi gán cho.
Thành viên của nhóm Fulro,
Không theo cách mạng, nên cho vô tù.

Tương lai ôi quá mịt mù,
Nên anh trốn thoát trại tù Gia Trung.
Được người bạn cho đi cùng,
Xuống ghe vượt biển, nửa mừng nửa lo.

Mừng vì được bạn giúp cho,
Lo vì bỏ vợ, con thơ lại nhà.
Đi là mãi mãi chia xa,
Nhưng làm sao được, khi ta trốn tù?

Vợ thì vừa mới sinh con,
Nên không theo được, vì con non ngày.
Thôi đành gạt lệ chia tay,
Mà đâu dám nghĩ, có ngày gặp nhau…

Ra khơi được một ngày thôi,
Thì ghe hỏng máy, và Trời bão dông.
Mọi người hết sức gắng công,
Chống cùng bão táp, giữ không bị chìm.

Ba ngày trôi giạt lênh đênh,
Tấp vào ghềnh đá, thật hên vô cùng.
Lúc Trời đang tối mịt mùng,
Tưởng là thoát nạn, vui mừng làm sao!!

Nào ngờ khi mới leo vào,
Công An nhìn thấy, họ ào đến ngay.
Đa phần đều bị còng tay,
Vì người mệt lả, không xoay kịp thời.

Chồng tôi cùng với mấy người,
Cố dùng tàn lực, rán chui vào ghềnh.
Dưới tràng đạn nổ vang rền,
Mấy lần thoát chết, số hên lạ lùng!!

Nhờ Trời đang tối mịt mùng,
Chồng tôi thoát được, vào rừng kế bên.
Sức tàn, lực kiệt, cho nên
Anh nằm ngất xỉu, ở bên bìa rừng.

Mặc cho bọn họ truy lùng,
Anh không còn biết gì trong lúc này.
Đến khi tỉnh lại mới hay,
Anh còn đang sống, nằm ngay trong Chùa.

Quả là phúc đức thặng thừa,
Được Thầy nhìn thấy, và đưa anh về.
Biết anh Công Giáo, chẳng nề,
Tận tình săn sóc, chở che an toàn…

Tuần sau, anh muốn rời Chùa,
Thầy khuyên cạo tóc, và đưa anh đồ.
Thầy Tu cải dạng khỏi lo,
Gởi anh theo chuyến xe đò thân quen.

Đưa anh vào đến Cam Ranh,
Nhờ bà Cô ruột, giúp anh lần này.
Ghe nhiều thuận lợi quá hay,
Được tàu Pháp vớt, thật may không ngờ…

Định cư Pháp ngay, khỏi chờ,
Ba năm sau, có giấy tờ vợ con.
Qua thời chờ đợi mỏi mòn,
Gia đình đoàn tụ, hết còn chia ly.

Mô Phật!
Ông tìm về thăm tôi hai lần
Giúp tôi tái tạo một phần chùa đây.
Và nhà từ thiện được xây,
Để nuôi các cháu không may tật nguyền.
Ông Bà đã tạo phước duyên,
Những công đức ấy hiển nhiên cao dày…

Nhìn hình chồng chụp với Thầy,
Trong hai lần trước về đây thăm Chùa,
Biết Thầy là lính khi xưa.
Làm tôi nhớ lại những mùa chiến chinh…

Biết bao chiến sĩ hy sinh,
Giữ cho làng xóm yên bình quê tôi,
Một vùng hẻo lánh xa xôi,
Quận đường An Túc, bầu trời xám mây…

Thực ra ảnh ngại về đây,
Nhưng ơn cứu mạng của Thầy rất to.
Nên không thể viện lý do,
Chính quyền khó dễ, làm cho ngại ngùng.

Chuyến này tôi muốn đi chung,
Thì chồng tôi lại tự dừng không đi.
Vì anh vẫn ngại chuyện gì,
Để tôi tiện thể thăm khi Mẹ già…

Mô Phật!!!
Tôi hiểu nỗi khổ ông ta
Một người trọng nghĩa, thật là quý thay!!

Thầy vừa lên tiếng tỏ bày,
“Chồng tôi can đảm về đây hai lần”.

Tuyệt nhiên không nhắc đến Lân,
Làm tôi hết sức phân vân chuyện này.
Nhưng rồi trấn tỉnh lại ngay,
Người tu, Thầy bỏ ngoài tai chuyện đời???

Nghĩ là Thầy còn nhớ tôi,
Nhưng không muốn nhắc chuyện thời trước đây.
Nên tôi lên tiếng nói ngay,
Thầy cho tôi hỏi câu này được không?

Chuyện này tôi rất là mong,
Xin Thầy hãy nói thật lòng cùng tôi.
Vì tôi thắc mắc lâu rồi,
Mong Thầy giải đáp, cho tôi yên lòng.

Mô Phật!!!
Người tu sao lại dối lòng?
Xin Bà đừng có ngại ngần làm chi…

Đây là mục đích chuyến đi,
Để tôi xác định những gì tôi tin.

Chuyện xưa còn nhớ như in,
Không sao quên được, dù nghìn trùng xa.
Nên tôi mạnh dạn nói ra,
Nếu không đúng, Thầy bỏ qua đừng phiền…

Vì đây là kỷ niệm riêng,
Mà tôi nhớ mãi đến nguyên cả đời.
Tôi thật hết sức bồi hồi,
Khi nhìn hình ảnh chồng tôi đem về…

Tên thế tục của Thầy là Quế?
Lê Phương Quế, có đúng thế không?
Nên tôi hết sức trông mong,
Gặp thầy để tỏ nỗi lòng riêng tôi.

Mô Phật!!!
Sao Bà biết rõ tên tôi?

Giận Thầy vô tâm, nhưng tôi nghĩ thầm.
Người tu chẳng hề để tâm,
Không để chuyện cũ lấn xâm vào hồn.
Nên tôi với giọng ôn tồn,
Để tìm hiểu chuyện tôi nôn nóng cần…

Vậy Thầy còn nhớ anh Lân?
Trung sĩ Đỗ Bá Lân, sư đoàn 23 bộ binh,
Có đóng quân ở An Khê tết năm 1972?
Bà còn biết cả bạn của tôi???
Anh đã tử trận năm 72 ở Kontum
Bà có biết không?

Tôi thăm mộ anh mấy lần,
Dự trù xây lại mộ phần cho anh,
Nhưng ước nguyện đó không thành,
Nghĩa trang dời mất, nên đành lại thôi.

Mắt Thầy rực sáng nhìn tôi,
Muốn ôm chầm lấy, nhưng rồi kịp ngưng.
Tỏ ra hết sức vui mừng,
Gặp người bạn cũ, đã từng biết nhau.

Và Thầy lên tiếng hỏi mau,
Vậy Bà là Xuân? Tôi đâu có ngờ.
Thời gian từ đó đến giờ,
Bao nhiêu biến cố, làm mờ tâm luôn!!!

Dạ thưa tôi chính là Xuân,
Nữ sinh An Túc mùa xuân năm nào.
Đã hân hạnh được mến trao,
Hai phần ủy lạo, nhìn vào giống nhau.

Không ngờ qua mấy ngày sau,
Hai anh cùng đến yêu cầu làm quen.
Trong ngày đi học đầu tiên,
Sau kỳ nghỉ tết, nên duyên bắt đầu…

*
 *     *

Trở lại trường, sau ngày lễ tết
Thấy chúng tôi chưa hết vấn vương.
Thầy không giảng dạy bình thường,
Để cho cả lớp tăng cường hát ca…

Thầy Giám Thị đi qua cho biết
Tôi có người tha thiết muốn thăm.
Vì là nhân dịp đầu năm,
Nên Thầy cũng chẳng muốn làm khó chi.

Bước theo thầy, tôi suy nghĩ mãi
Sợ ở nhà có chuyện chẳng may?
Thì Thầy đã vội chỉ tay,
Về hai anh lính, ngồi ngay sân trường.

Hai anh thật trẻ hơn tôi tưởng,
Đứng lên chào, sung sướng cười trao.
Lòng tôi có chút xuyến xao,
Ngạc nhiên hết sức, không bao giờ ngờ.

Hai anh nói lý do tìm đến,
Cám ơn Xuân thương mến tặng quà.
Chúc mừng năm mới vừa qua,
Luôn vui, trẻ, đẹp hơn là năm xưa…

Hơi ngỡ ngàng, tôi đưa câu hỏi,
Có gì đâu anh nói cám ơn?
Mà sao hai anh biết tên?
Cả hai cùng đưa thư lên một lần.

Tôi biết do phần quà uỷ lạo,
Mà tôi đã mạo muội kèm thơ,
Thì ra thế, đâu có ngờ,
Nguyên nhân đưa đến tình cờ hôm nay.

Một anh lên tiếng ngay sau đó,
"Tôi Đỗ Lân, chưa có gia đình"
Và anh gới thiệu bạn mình
"Lê Phương Quế, bạn thân tình đã lâu."

Anh hát cũng rất “ngầu” lắm đó,
Với Phương Hồng Quế, khó ăn thua.
Cô Xuân đã thấy nể chưa,
Khi nào có dịp, mình đua nhau tài…

Tôi hơi quê, vội quay ra trách,
Anh đến tìm, Thầy khiển trách em sao?
Thì anh Quế vội xen vào,
Thầy thương lính lắm, làm sao nỡ rầy.

Và hơn nữa tụi này có nói,
Là anh em họ, tới tìm thăm.
Vì là xa cách nhiều năm,
Sống đời quân ngũ, suốt năm xa nhà…

Nghĩ rằng lính hào hoa ghê lắm,
Nên tôi ngại không dám sỗ sàng.
Tôi lên tiếng bảo hai chàng,
Lớp em hiện ca hát đang tưng bừng.

Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.
Nếu hai anh chịu khó vào đây
Để nghe anh Quế trổ tài,
Cho em được biết hát hay thế nào?

Hai anh đồng ý theo vào lớp,
Để được hân hạnh góp lời ca.
Cho tôi cảm thấy vui ra,
Nghĩ rằng cả lớp cùng hoà vui lây.

Hai anh đến chào thầy phụ trách,
Thể hiện theo phong cách nhà binh.
Làm cho cả lớp lặng thinh
Thầy chào đáp trả, cảm tình sâu xa…

Anh Lân nhanh nhẹn bước ra,
“Tôi không có được giọng ca tuyệt vời.
Nên xin phát biểu đôi lời,
Chúc Thầy và bạn vui chơi an lành…

Cám ơn những tấm lòng thành,
Với người lính chiến, luôn dành tin yêu.
Gói quà tuy chẳng bao nhiêu,
Nhưng tình thương mến, thật nhiều bao la.

Giúp cho người lính xa nhà,
Thấy lòng ấm áp, chan hoà quân dân.
Hai đứa tôi có hai phần,
Do cô Xuân tặng, xin cần nói thêm.

Mỗi lần nghe đến tên Xuân,
Chúng tôi có trọn mùa xuân trong đời…”

Cả phòng đều rộ tiếng cười,
Làm cho không khí thêm tươi vui nhiều.

Tôi nghe có tiếng nói trêu:
“Xuân ơi, mày chỉ được yêu một người,
Còn chừa một lại cho tôi”

Đúng là nghịch ngợm không lời nào chê!

Anh Lân chỉ tay hướng về,
Bạn anh đang đứng cạnh kề bên đây.
“Xin nhường cho người nhiều tài,
Anh Lê Phương Quế, hát hay tuyệt vời.

Như Phương Hống Quế ngoài đời,
Sẽ hân hạnh được góp lời hôm nay.”

Mọi người đồng loạt vỗ tay,
Để xem anh Quể hát hay thế nào?

Quế vui vẻ đưa tay chào,
Nhà binh thực thụ, gây bao ngỡ ngàng.
Anh nhờ Thầy, giúp đệm đàn,
Và ca bài “Xuân Này Con Không Về”.

Giọng ca quả thật rất phê,
Với bao luyến láy, làm tê tái lòng…
Nên khi anh đã hát xong,
Mọi người như vẫn còn mong tiếp hoài…

Hình như anh chọn đúng bài,
Tâm tư gởi trọn vào giây phút này…
Tiếp theo là tiếng vỗ tay,
Lẫn trong tiếng “bis” kéo dài thật lâu.

Để nhằm thoả mãn yêu cầu,
Tôi xin được phép bắt đầu hát sang.
Một chiều trên phá Tam Giang,
Chuyện anh chiến sĩ nhớ nàng hậu phương.

Cho tôi cảm thấy xót thương,
Những người lính chiến trên đường hành quân.
Vì quê hương, vì toàn dân,
Các anh buộc phải dấn thân miệt mài…

*
 *     *

Không ngờ định mệnh an bài,
Sau ngày gặp gỡ cả hai lần đầu.
Và rồi thêm mấy lần sau,
Thì tôi biết họ quen nhau lâu rồi.

Từ hồi là Thiếu Sinh Quân,
Tuy là khác đạo, nhưng thân nhau nhiều.
Bạn bè đâu có bao nhiêu,
Nay cùng đơn vị, là điều may thay.

Gia đình Lân chẳng còn ai,
Mẹ Cha đều chết trong ngày Mậu Thân.
Do quân Việt Cọng ác nhân,
Chiếm thành phố Huế, giết dân khó ngờ…

Lân thường đi lễ nhà thờ,
Những khi không bận thì giờ hành quân.
Nên tôi thường gặp mỗi tuần,
Giúp cho tình cảm thêm phần thăng hoa.

Tôi thường đưa Lân về nhà,
Mẹ Cha khen tính thật thà, dễ thương.
Là người ý chí kiên cường,
Dù bao bất hạnh, tìm đường tiến thân…

Anh đang học thi bán phần,
Không hề buồn tủi số phần hẩm hiu.
Mà còn cố gắng thật nhiều,
Trong công việc học, là điều tốt thôi.

Nghĩ là anh rất thương tôi,
Vì anh luôn giữ không rời khăn tay.
Quà tôi đã tặng trước đây,
Trong lần uỷ lạo nhân ngày đầu năm.

Mắt buồn, nhìn phía xa xăm,
Nghẹn ngào không nói, mỗi lần chia tay.
Còn tôi, tơ tưởng đêm ngày,
Đọc kinh cầu nguyện: “anh may mắn nhiều”.

Phải chăng tôi đã biết yêu?
Thích nghe nhạc lính, thích điều lính mê.
Thích hoa rừng núi An Khê,
Anh Lân thường hái đem về tặng cho…

Chiến tranh ngày một cam go,
Và tôi đã biết âu lo, buồn phiền.
Nhiều nơi ở vùng Cao Nguyên,
Dakto, Tân Cảnh, hết yên nữa rồi.

Kontum bị pháo liên hồi,
Pleiku cũng đã đứng ngồi không yên.
Hàng đêm tiếng súng vang rền,
Hỏa châu rực sáng, trên nền trời xa.

Lòng tôi thấp thỏm lo ra,
Các anh lính chiến chắc là gian nan.
Cầu mong họ được bình an,
Nhất là người bạn tên Lân hiền lành.

*
 *     *

Đã hơn tuần, không gặp anh,
Chắc là bận việc đi hành quân xa.
Tình cờ chủ nhật vừa qua,
Khi tôi đang lễ, Lân sà bên tôi.

Lễ xong, vừa ra nhà thờ,
Thấy ngay anh Quế, đang chờ trước sân.
Tôi mời hai anh Quế, Lân,
Ghé nhà chơi, có Song Thân tôi chờ.

Nhìn hai anh dáng bơ phờ,
Buồn xo không nói, tôi ngờ điều chi…
Hỏi hai anh có chuyện gi?
Nhìn nhau thầm bảo, rồi thì lặng yên.

Hai anh ở lại nguyên ngày,
Mẹ tôi thương lính, nên bày nấu ăn.
Chúng tôi phụ giúp lăng xăng,
Đuổi gà để bắt, bẻ măng, đào gừng…

Cùng nhau ca hát tưng bừng,
Bao nhiêu phiền muộn, như chừng tiêu tan.
Ăn xong, chúng tôi cùng bàn,
Ra ngồi dưới bóng của tàn cây đa.

Để nghe Quế hát tình ca,
Tôi, Lân, vui vẻ cùng hòa lời chung.
Đến chiều, anh Quế xin ngưng,
Để đi về trước, chúc mừng chúng tôi…

Từ khi anh Quế về rồi,
Trong phòng còn lại tôi ngồi với Lân.
Lần đầu thấy anh tần ngần,
Và rồi chấn chỉnh tinh thần nói ra.

Là anh yêu tôi thiết tha,
Ngại vì đời lính, xông pha chiến trường…
Dẫu cho xa cách ngàn phương,
Nguyện xin giữ mãi tình thương nhau hoài.

Lần đầu thấy mắt tôi cay,
Phải chăng sung sướng được say men tình?
Hay vì nghĩ đến phận mình,
Sẽ không khác chuyện tình “Chinh Phụ Ngâm”?

Tôi đang suy nghĩ âm thầm,
Thì Lân đã vội ôm chầm lấy tôi.
Nụ hôn anh đặt lên môi,
Lần đầu đón nhận, tôi hồi hộp ghê!!

Rồi anh từ giã ra về,
Cầm tay, hứa trọn lời thề sắt son.
Dầu cho sông cạn đá mòn,
Nhưng tình ta mãi vẫn còn bên nhau…

Trong giờ học, sáng hôm sau,
Thấy nhiều xe lính tiếp nhau ngoài đường.
Trên đường ra đến phi trường,
Tôi lo có chuyện bất thường không may.

Chắc là Lân đã rời đây,
Bèn xin cô giáo ra ngoài xem sao?
Khi tôi ra đến hàng rào,
Chiếc xe sau chót đã lao khuất tầm.

Tôi quay vào lớp âm thầm,
Cứ mong mình đã nghĩ lầm về Lân.
Chiều về, được một người thân,
Trao cho mảnh giấy của Lân gởi về.

Xuân ơi!
Anh đang ở phi trường Pleiku,
Chờ không vận lên tiểu khu Kontum.
Chiến trường đột biến tùm lum,
Tân Cảnh thất thủ, Kontum khó vào.

Địch quân chiếm núi Chu Pao,
Con đường 14 lâm vào hiểm nguy.
Sợ rằng sẽ rất khó đi,
Việc liên lạc, không chắc gì được đâu.

Nên anh viết vội đôi câu,
Cho em được rõ, ngõ hầu bớt mong.
Xin em rộng lượng cảm thông,
Tối qua từ giã, mà không nói gì.

Việc anh sẽ phải chuyển đi,
Sợ em lo lắng, phần vì an ninh.
Nên anh đã phải lặng thinh,
Dẫu anh yêu mến và tin em nhiều.

Và anh xin hứa một điều,
Dầu bao cách trở, vẫn yêu em hoài.
Cuộc đời chinh chiến rủi may,
Xin em cầu nguyện mỗi ngày cho anh.

Lời sau cùng anh xin dành,
Chúc cho hai đấng sinh thành an vui.
Hôn em, và thương em nhiều.
Đỗ Lân

*
 *     *

Không ngờ chỉ ba tuần sau,
Lân đền nợ nước, để sầu riêng tôi!!!
Lặng thinh, không nói nên lời,
Tin như sét đánh, làm tôi sững sờ!!!

Làm sao tôi có thể ngờ,
Lá thơ viết vội, là thơ cuối cùng!!!
Chiến tranh sao quá lạnh lùng,
Gây bao tang tóc, không dừng lại ngay.

Theo lời anh Quế tỏ bày,
“Anh Lân tắt thở trên tay của mình.
Trước khi chết, anh tâm tình,
Nhờ tôi trao mấy tấm hình giúp anh”.

Hình của hai đấng sinh thành,
Mà nay họ đã trở thành cố nhân.
Và một hình của anh Lân,
Mặc trang phục Thiếu Sinh Quân tuyệt vời.

Hình này được để tại nơi,
Nhà thờ An Túc, bao thời còn nguyên.
Cuối cùng là một dây chuyền,
Có hình Thánh Giá, tôi nguyền mang theo.

“Lục trong túi có khăn tay,
Và thư Xuân gởi, trong ngày đầu năm.
Là quà uỷ lạo quân nhân,
Nữ sinh An Túc, ân cần mến trao.

Quế còn nghe anh thì thào,
Nhắc tên Xuân, trước khi vào hôn mê”.

Anh Quế gom hết gởi về,
Kèm thư anh kể, lúc kề bên Lân.

Nhờ người phi công quen thân,
Đem về Pleiku trong lần đổ quân.
Anh tìm đến nhà của Xuân,
Và trao tất cả đồ Lân giữ gìn.

*
 *     *

Tôi vẫn còn nhớ như in,
Cuối năm bảy ba, được tin không lành.
Cũng do thảm họa chiến tranh,
Thầy bị thương nặng, sắp thành phế binh.

Thầy cho tôi biết sự tình,
Hiện đang điều trị, tình hình khả quan.
Tôi đi ngay, khi được thư,
Đến quân y viện Pleiku thăm Thầy.

Tới nơi tôi mới được hay,
Thầy vừa được chuyển về ngoài Nha Trang.
Giúp lo chữa trị đàng hoàng,
Lại gần nhà, được dễ dàng chăm lo.

Đường đi lúc đó cam go,
Đoạn đèo An Khê, không cho lưu hành.
Nên tôi bắt buộc phải đành,
Chờ đường thông suốt, xuống nhanh thăm Thầy.

Nhưng rồi cũng lại không may,
Thầy đi đâu mất, không ai biết rành.
Tôi đi hỏi thăm lanh quanh,
Cũng không tin tức, nên đành về thôi.

*
 *     *

Xin Bà thông hiểu cho tôi,
Hội đồng giám định cho tôi về nhà.
Tôi về sống với Mẹ già,
Mẹ người tu tập tại gia lâu rồi.

Suốt đời chỉ lo nguyện cầu,
Trước là cho chồng, tiếp sau là con.
Trên đường chinh chiến bình an,
Nhưng Bà lại sớm lỡ làng đắng cay.

Cha hy sinh trận Đồng Xoài,
Lúc tôi chưa được mười hai tuổi đời.
Một mình Mẹ sống đơn côi,
Vui trong kinh kệ, từ nơi Phật truyền.

Phải chăng đó là cơ duyên,
Để Thầy xuất gia, lập nên chùa này?
Nguyên do đó cũng không sai,
Nhưng phần chính do bi ai vô thường.

Chiến tranh gây bao nhiễu nhương,
Bao người trai trẻ chiến trường hy sinh.
Rất buồn cho dân tộc mình,
Anh em giết hại, gia đình ly tan.

Sống không một chút bình an,
Luôn trong hoàn cảnh cơ hàn, âu lo.
Cơm thời bữa đói, bữa no,
Phải lo chạy giặc, thương cho dân mình…

Thấy điều vô thường, vô minh,
Trong kinh Phật dạy, quả tình thâm uyên.
Nên tôi tìm đến cửa Thiền,
Để mong trút bỏ oan khiên, ưu phiền…

Như vừa nhớ ra chuyện riêng,
Thầy quay ra sau, và liền chỉ tay.
“Tôi đưa Bà đến nơi này,
Tôi hy vọng là rất hay với Bà…”

Qua triền đồi, thấy hiện ra,
Một vùng bằng phẳng, đầy hoa lan rừng.
Đang mùa nở đẹp lạ lùng,
Loại hoa mà Lân đã từng tặng tôi.

Nhắc tôi tưởng nhớ đến thời,
Chúng tôi quen biết, và rồi yêu nhau…
Giờ đây mấy chục năm sau,
Vẫn còn nguyên vẹn, nỗi sầu cách chia…

Giữa khu vườn là mộ bia,
Có cây Thánh Giá, ngạc nhiên hỏi Thầy.
Thầy không nói ra điều này,
Chỉ tay ra dấu, đến ngay đó liền.

Một điều hết sức ngạc nhiên,
Mộ bia đã được khắc tên rõ ràng.
Làm tôi hết sức ngỡ ngàng,
Thì ra Thầy đã cố mang anh về…

GIUSE ĐỖ LÂN
Sinh ngày 10 – 7 – 1953 tại Huế
Chết ngày 11 – 5 – 1972 tại Kontum.

Tôi quỳ trước mộ của Lân,
Làm dấu Thánh Giá, lâm râm, sụt sùi.
Lòng tôi rất đỗi bùi ngùi,
Vì đồng cảnh ngộ, rèn trui nên tình…

Tôi ngồi đó, thả hồn mình,
Về ngày xưa, với mối tình thơ ngây…
Một cơn gió làm rung cây,
Quay ra mới biết là Thầy đã đi.

Chẳng nghe Thầy nói điều gì,
Chắc là ông thấy tôi thì thầm thưa.
Muốn tôi cùng với người xưa,
Cùng nhau thổn thức, điều chưa giải bày.

Hay là Thầy muốn đi ngay,
Người tu, phải bỏ ngoài tai chuyện đời?
Ở đây không phải là nơi,
Nên Thầy đã lánh, tránh lời vu vơ…

Vào Chùa, tôi thêm bất ngờ,
Thấy ngay chú tiểu đang chờ tại đây.
Chuyển lời xin lỗi của Thầy,
Trao tôi mảnh giấy gấp hai nói là:

Thầy đang cúng ngọ thưa Bà”,
Tôi cầm mảnh giấy, mở ra đọc liền.
Trong bầu không khí lặng yên,
Vẳng nghe có tiếng chuông rền từ xa…

Xin chào và cám ơn Bà!
Giờ thì Bà đã biết, và yên tâm
Về phần mộ của anh Lân,
Chính tôi cải táng Mộ Phần về đây.

Khi được thông báo cho hay,
Nghĩa trang giải tỏa, dời ngay mộ phần.
Biết Lân không còn thân nhân,
Vì tình bằng hữu, tôi cần làm ngay.

Cũng xin Bà kể từ nay,
Hãy cầu nguyện cho anh Lân thông qua
Lễ nghi tôn giáo của Bà.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

NGUYỄN SÁU

***

Trở về đầu trang