Trở về trang Mục Lục
ĐÁM CƯỚI NGOÀI BIỂN KHƠI
Bài chuyển thơ từ truyện ngắn cùng tên của NGUYỄN NGỌC HOA
Người chuyển thơ Nguyễn Sáu
***
Khoảng bốn giờ, là tôi đã thức giấc,
Ngày nào cũng vậy, tôi rất quen giờ,
Nằm trên giường bố, suy nghĩ vẩn vơ,
Lại thêm một ngày, sao vô vị quá!
Đêm tịch mịch, gió xuyên qua cành lá,
Và Quỳnh Châu đang êm ả giấc nồng,
Trên giường bố khác, đặt sát bên hông,
Với hơi thở nhẹ nhàng, trông thanh thản.
Bỗng có tiếng ai đó, nghe hốt hoảng,
Từ căn trại cách đây khoảng không xa,
Tiếng kêu cứu của một người đàn bà,
“Cứu con tôi, bớ người ta, làm phước!”
Tôi vùng dậy, thay áo quần ra trước,
Quỳnh Châu cũng bén gót bước theo sau,
Chạy về hướng có tiếng kêu thật mau,
Chui vào lều, và bắt đầu tìm hiểu…
Một cặp vợ chồng trẻ, đang líu quíu,
Chồng bồng bé khoảng sáu tháng, trĩu nặng lòng,
Còn vợ thì đang lo lắng khóc ròng,
Kể tôi nghe về bé, trong nước mắt.
Cháu bị sốt từ đầu hôm rất gắt,
Khóc cả đêm, chúng tôi rất là lo,
Đến giờ này hết khóc, nằm im ro,
Nóng hừng hực, cháu lại đờ ra đó.
Tôi liền bảo cho Quỳnh Châu được rõ,
“Anh kêu cứu thương, em ở đó giúp anh”.
Tôi cố hết sức, để chạy thật nhanh,
Đến phòng trực, trình bày nhanh sự việc.
Người hạ sĩ quan trực, gọi khẩn thiết,
Mười phút sau, xe cấp cứu nhà binh,
Đến ngay lều, để xem xét sự tình,
Yêu cầu tôi, theo gia đình thông dịch.
Chưa tới mười phút, xe đã đến đích,
Bệnh viện Hải quân thuộc trại Pendleton.
Ngôi nhà rất đồ sộ, trông hết hồn,
Và mùi thơm làm tôi luôn nhớ mãi.
Bác sĩ trực, sĩ quan Hải quân thì phải?
Vì áo choàng trắng bên ngoài phủ che.
Tôi thấy hơi quen, nhưng còn e dè,
Ông đang chăm chú lắng nghe người má.
Khám bé xong, ông chỉ cho y tá,
Đắp khăn lạnh, để làm hạ nhiệt ngay.
Tôi giật mình, thấy chuyện lạ lùng thay,
Khác với Việt Nam, sao hay quá vậy?
Ông giải thích cho vợ chồng hiểu lấy,
Bé sưng phổi, nhiệt độ đẩy lên cao.
Giờ đã ổn, cần giữ lại xem sao,
Anh chị có thể cùng ở vào trong đấy.
Nhìn vào ngực áo, tôi liền trông thấy,
Tên “Robert Steeler” đúng đấy không sai,
Là anh Rob tôi đã quen trước đây,
Khi ở Nha Trang, hồi bảy năm trước…
Thấy bịnh nhân quá đông, không hỏi được,
Định ra ngoài, tìm xe ngược trở về.
Anh vỗ vai, nói tiếng Việt thật khó nghe,
“Èm Bà Hoa, rật vùi mưng được gắp”
Rồi anh đổi sang tiếng Anh vì gấp,
Rất tiếc, bịnh khẩn cấp quá nhiều.
Xin hẹn em vào thứ bảy buổi chiều,
Tôi và Vân có nhiều điều muốn nói…
Chắc là chị Tứ Vân, tôi tự hỏi?
Là cô giáo, có giọng nói rất hay,
Lần đầu gặp, khi tôi thi Tú tài,
Cô là một, trong hai người giám thị.
Cô biết tôi bị thầy Cự nghi kỵ,
Cố giữ cho tôi khỏi bị thầy đì,
Muốn đuổi tôi, bất cứ lý do gì,
Để tôi mất một kỳ thi oan uổng.
Vì một lời đồn hết sức hoang tưởng
Khi tôi học ở Huế, tưởng đã phai.
Đám bạn tôi đã có lời chê bai
Thầy nói tiếng Anh, không ai hiểu nổi.
Vì giọng Huế, mà đã làm thay đổi,
So với tôi, còn tương đối hay hơn…
Vì lẽ đó mà thầy rất căm hờn,
Đợi có dịp, sẽ trút cơn oán hận…
Ban Mê Thuột tỉnh nhỏ, nên lận đận,
Mỗi kỳ thi, phải xuống tận Nha Trang.
Nơi có trung tâm thi của toàn vùng,
Thành phố khang trang nơi vùng Duyên hải.
Sau kỳ thi viết, thì giờ rỗi rãi,
Đám con trai thăm bạn gái cùng trường,
Đang tạm trú nơi biệt thự thật sang,
Nhà quen của cô bạn tôi tên Kiếm.
Và tôi lại tình cờ biết thêm chuyện,
Cô giám thị tôi, đang hiện ở đây,
Là bà “O” của cô bạn Kiếm này
Du học Mỹ, thầy Anh văn Đồng Khánh.
Ngày vấn đáp, cô sắp để tôi tránh,
Gặp thầy Cự, sẽ bị đánh rớt ngay.
Để cô hỏi tôi môn Anh văn này,
Thật biết ơn, tấm lòng đầy bảo bọc…
Xong Tú tài, tôi vào Sài Gòn học,
Kiếm lấy chồng, tụ về gốc Nha Trang.
Ba năm sau, ngay trong dịp hè sang,
Nhớ nơi biển xanh, nắng vàng, cát trắng.
Tôi ra thăm, và thật là may mắn,
Gặp cô Tứ Vân, đã chuyển hẳn về đây,
Dạy trường Nữ trung học Nha Trang này,
Hiện sống chung với hai vợ chồng Kiếm.
Vì mới sinh, Kiếm chưa được diện kiến,
Tôi nói chuyện qua màn kín bao quanh.
Theo tục lệ xưa, nàng phải thi hành,
“Phải ở cữ, sau khi sanh cả tháng.”
Mười ngày ở Nha Trang rất thỏa mãn,
Có cô Vân, thật chẳng quản công này,
Đi chơi cùng anh Rob luôn bao ngày,
Anh là Đại úy Bác sĩ Hải quân Mỹ.
Qua Việt Nam, theo chương trình “Dân vận”,
Hỗ trợ cho Dân y viện Nha Trang.
Được đặc biệt từ bên Mỹ gởi sang,
Đoàn công tác được mang tên MILPHAP.
(Military Provincial Health Assistance Program)
Hai người học chung Đại học Texas,
Tại Arlington, thuộc tiểu bang Texas.
Họ quen nhau, và cũng rất yêu thương,
Xong khóa học, cô lên đường về nước.
Rob theo chương trình Hải quân từ trước,
Chi phí đại học được Hải quân lo.
Xa người yêu, anh cảm thấy buồn xo,
Nhưng phải học để cho thành Bác sĩ.
Anh tình nguyện vào MILPHAP của người Mỹ,
Qua Việt Nam, mục đích chỉ được gần,
Người mình yêu để nâng đỡ tinh thần.
Anh hết lòng vì cô Vân tất cả…
Tự học tiếng Việt, đọc hiểu rất khá,
Thiếu thực hành, nên nói quá vụng về.
Bỏ dấu không đúng, nghe thật ngô nghê,
Rất buồn cười, và khó nghe hết sức.
Qua tiếp xúc, tôi biết được tin tức,
Tình hai người bị áp lực rất găng.
“Làm me Mỹ” gia đình cố can ngăn,
Cô Vân khó vượt qua “lằn” lễ giáo…
*
* *
Trưa thứ bảy, tôi được loa thông báo,
Đến bộ chỉ huy, có khách bảo muốn thăm.
Cô Vân y như trước đây bảy năm,
Mái tóc dài bồng bềnh và đen láy.
Người vẫn trẻ trung, như thời con gái,
Tôi vui mừng, liền nắm lấy tay cô.
Và vội vàng lên tiếng hỏi thật to,
“O qua hồi nào? O khi mô cũng đẹp”.
“O bà lo xo”, đâu có ai cho phép?
O của Kiếm, sao lại ghép với Ba Hoa?
Gọi bằng chị, cho tôi thấy trẻ ra,
Chứ kêu O nghe thấy già lắm đó.
Chị thì chị, chứ tôi đâu có sợ,
Đây là Quỳnh Châu, mụ vợ đáng yêu.
Tôi đã lây hồn nhiên của chị nhiều,
Phong cách Huế, đó là điều đáng quý…
Qua giỏ thức ăn, chứa đầy hương vị,
Mà anh Rob đã chuẩn bị sẵn sàng.
Cùng chúng tôi, trong hoàn cảnh khó khăn,
Tìm đến tàn cây, ngồi ăn picnic.
Và mở đầu, chị Vân kể cho biết,
Cuộc hành trình đầy thống thiết ưu tư.
Khi Nha Trang thất thủ, đầu tháng tư,
Chị chạy vào Sài Gòn từ lúc đó.
Ở tạm nhà người bà con trong họ,
Ba Má chị vẫn chưa rõ ra răng.
Có nghe tin, họ đã vào Đà Nẵng,
Nhưng rồi từ đó, chẳng được tin nữa.
Phần anh Rob, thì ruột nóng như lửa,
Biết miền Nam đã sắp sửa lâm nguy.
Lo tìm cách bay qua đó tức thì,
Đón người yêu, để đưa đi về Mỹ.
Từ bịnh viện, xin ba mươi ngày nghỉ,
Nhưng khó khăn cho các vị sĩ quan.
Vô Sài Gòn lúc này không phải dễ dàng,
Phải có sự vụ lệnh rõ ràng mới được.
Chuyện bị phạt, tôi có thể biết trước,
Thà chịu tội, hơn bội ước với lòng.
Vì lúc này, tôi rất là trông mong,
Gặp được người yêu đang trong bối rối…
Và Pan Am cho tôi chuyến bay cuối,
Vào Sài Gòn ngày hai bốn tháng tư.
Thật may mắn, tôi tìm được “tiểu thư”,
Anh nói tiếng Anh, như ai cũng biết.
Còn ba chúng tôi líu lo tiếng Việt,
Câu đầu tiên của chị biết sao không?
“Về đây làm chi, muốn chết hở ông?”
Về đón em đi, nếu không anh ở lại…
Bị Việt Cộng bắt anh cũng chẳng ngại,
Hết nước nói, khỏi tranh cãi làm chi.
Cuốn gói theo ông tướng “gan cóc tía ni”,
Chị tình tứ vịn tay anh, khi cho biết.
Vân bằng lòng, tôi vui mừng khôn xiết,
Đến tòa Đại sứ, cũng thiệt là may.
Tôi đưa thẻ MILPHAP hết hạn lâu ngày,
Đang hối hả, không ai nhìn kỹ lưỡng.
Họ liền đẩy chúng tôi lên sân thượng,
Đã có chiếc trực thăng đương chờ đây.
Để đưa nhân viên ra thẳng USS Midway,
Thế là chúng tôi liền bay khỏi Việt Nam…
USS Midway là hàng không mẫu hạm,
Thủy thủ đoàn có khoảng bốn ngàn người.
Phi cơ có đến một trăm hai mươi,
Đã hai lần tham chiến nơi phía Bắc.
1965 yểm trợ oanh tạc miền Bắc
1972 tham gia công tác gài mìn
1975 trở lại đây theo lịch trình
Của chiến dịch “Gió Thường Hay Thổi”(Frequent Wind)
Để di tản gấp nhân viên dân sự,
Gồm Mỹ, Việt, được tuần tự bốc đi.
Trong những ngày cuối cùng của tháng tư,
Lượng trực thăng bay ra tàu, như chim biển.
Chị Tứ Vân bồi hồi kể lại chuyện:
Trực thăng Mỹ, thì đi về thường xuyên.
Còn Việt Nam, thì chở gia đình riêng,
Cũng xin đáp xuống liền liền tới tấp.
Nhân vật quan trọng và nổi bật nhất,
Là ông “Phó Kiền”, thấy rất hào hùng.
Bộ đồ bay xám, bó sát lạ lùng…
Râu mép “kẽm”, chị đã từng trông thấy.
Hùng tráng và cảm động nhất trong đấy,
Là cuộc hạ cánh của người lái L-19.
Loại máy bay nhỏ, chở có hai người,
Chỉ dùng để liên lạc và thám thính.
Thiếu tá “Bảnh” chở hết cả gia đình,
Gồm một vợ và năm con của mình,
Từ Côn Sơn đến, sự tình khó khăn.
Mẫu hạm phát lệnh ngăn không cho đáp.
Vì L-19 không thể giảm tốc gấp,
Và phi công chưa được tập cách này.
Đáp xuống biển, là giải pháp rất hay,
Sẽ có cano đến liền ngay để cứu.
Họ liên lạc vô tuyến, nhưng vô hiệu,
Chiếc L-19 bay quanh tàu nhiều vòng.
Cố thả giấy xuống, nhưng không kết quả,
Vì gió thổi, đưa giấy bay đi xa.
Phải đợi mãi cho đến vòng thứ ba,
Giấy quấn quanh súng, bỏ vào bao da.
Rơi đúng boong tàu, mở ra thấy viết:
Tôi có thể đáp trên phi đạo tàu,
Xin làm ơn di chuyển trực thăng mau.
Tôi còn nhiên liệu, đợi một tiếng sau,
Làm ơn cứu chúng tôi theo yêu cầu.
Thiếu tá Bảnh vợ và năm con.
Hạm trưởng Midway chấp nhận yêu cầu ấy,
Và cho lệnh, cùng nhau đẩy trực thăng
Rơi xuống biển, để dọn trống đường băng,
Toàn thuỷ thủ, cố đẩy bằng mọi cách…
Cả mấy chục trực thăng được dọn sạch,
Chi phí tính ra, cả chục triệu đô la.
Cuộc hạ cánh ngoạn mục, được diễn ra,
Mọi người hoan hô, quả là đáng phục…
Anh Rob cười nhẹ, và nói tiếp tục,
Chuyện hay nhất, là lúc tôi kết hôn.
Ngay trên tàu, mới thật là hết hồn,
Siết tay anh, tôi tôn vinh thể hiện.
Thì ra anh chị cưới nhau trên biển?
Chúc mừng anh chị, sáng kiến thật hay.
Xưa nay chắc không có thấy được ai,
Làm đám cưới như thế này, lạ quá…
Xuống Midway, hai đứa ở hai ngả,
Anh Rob là sĩ quan, đã có phòng.
Chị là tỵ nạn, nên quá long đong,
Khi phòng lính, khi ra boong để ngủ…
Anh không muốn giống “Ngưu lang Chức nữ”
Nên đề nghị, hai đứa “thử” cưới nhau.
Lấy quách cho xong, khỏi đợi chờ lâu,
Chị Vân cười, như có màu e lệ…
Quỳnh Châu khen “Tụi em thật quá nể”,
Cảnh hỗn độn, mà có thể thành hôn.
Khó khăn chi mô, chỉ cần có hai “ôn”
Hạm trưởng, Mục sư tuyên uý không phản đối.
Đã cho anh chị có được cơ hội,
Nên tiến hành liền, không đợi chờ lâu.
Lễ cử hành trong nguyện đường của tàu,
Mục sư tuyên úy, đứng đầu hành lễ.
Chị mặc áo dài, cho ra người Huế,
Họ nhà gái, thì không thể tìm ai.
Chỉ gia đình phi công quen trước đây,
Nhẫn cô dâu, cũng chị này cho mượn.
Rob mặc đại lễ Hải quân, rất ấn tượng,
Cùng nhẫn cưới, đều mượn của Ba anh.
Ông là Đô đốc, rất có quyền hành,
Trong Đệ thất Hạm đội, riêng dành đặc biệt…
Chị nắm tay anh, tỏ tình thắm thiết,
Anh đáp trả bằng tiếng Việt như sau:
Một tí connection, tiềng Viết mịnh cọ cấu,
Còn ông chàu cha, cũng đâu dễ có.
Anh lại nói thêm tiếng Anh cho rõ,
Ông già tôi là Đô đốc George P. Steeler.
Chức vụ then chốt Đệ thất Hạm đội đó nghe,
Ông bay trực thăng riêng đến USS Midway.
Từ soái hạm USS Oklahoma City,
Với mục đích, chỉ để dự lễ cưới…
Nhìn thấy anh với nụ cười rạng rỡ,
Chúng tôi có cảm tưởng, ngỡ như là,
Vừa mới được nghe qua “chuyện cổ tích”.
Chuyện tình hai anh chị, thật là thích,
Đầy bất ngờ như thảm kịch Việt Nam.
Không biến cố, chắc khó làm đám cưới…
NGUYỄN SÁU
***
Trở về đầu trang |