Trở về trang Mục Lục

TÌNH MUỘN

Dựa theo bài của Trần Ngọc Ánh trên Việt Báo
Bài số 5476-20-31283-vb7082518

***

Tôi biết anh, chỉ sau khoảng mấy tháng,
Ngày Sài Gòn bị Cộng Sản xâm lăng.
Cả Miền Nam, đều lâm cảnh khó khăn,
Là thầy giáo, anh bị “văng” mất chức.

Rời Văn Khoa, lòng anh buồn ray rứt,
Đã làm anh phải thao thức hàng đêm.
Lo Phường Khóm lại gây khó khăn thêm,
Không công việc, khó ở êm thành phố…

Anh là bạn của Thầy tôi trước đó,
Cả hai người đều không có việc làm.
Đi lang thang cho khuây khỏa thời gian,
Ghé vào thăm tôi, cũng đang bệ rạc.

Cả ba thầy trò, đều trông xơ xác,
Tôi mời bữa cơm đạm bạc, chân tình.
Để có thì giờ chia sẻ chuyện mình,
Trong hoàn cảnh quá điêu linh hiện tại.

Những bực bội, khó khăn, và trở ngại,
Mà cả Miền Nam đều phải trải qua.
Do chế độ độc ác, và điêu ngoa,
Những con người, chỉ toàn là lừa dối.

Để giải tỏa những điều tôi bực bội,
Viết nhật ký, cho vơi nỗi buồn phiền.
In ronéo cả xấp, để dành riêng,
Chưa tin ai, để hàn huyên tâm sự…

Nay gặp Thầy và anh, thôi tư lự,
Chưa học anh, nhưng tôi cứ gọi Thầy.
Liền đưa tập nhật ký ra trình bày,
Và trao tặng, được cả hai hoan hỷ.

Một người thân, đã lén chuyển qua Mỹ,
Và được đăng trong tạp chí Việt Nam,
Tôi được tin, thôi thế cũng yên tâm,
Sẽ có người đọc được tâm sự đó.

Rồi cuộc sống, ngày càng thêm khốn khó,
Sống trên quê, mà chẳng có bình yên.
Nên mọi người đều tìm cách vượt biên,
Gia đình tôi chọn cách riêng, cứu nước.

Anh may mắn, chuyến vượt biên thoát được,
Đến Nam Dương, nhờ ơn phước Trời ban.
Gia đình tôi, phải nếm trải gian nan,
Chồng tử hình, tôi phải mang tù tội.

Đứa con nhỏ mới vừa tròn một tuổi,
Cũng vào tù, đâu biết gởi cho ai.
Thật tội nghiệp cho một đứa bé trai,
Phải chịu cảnh đọa đày như má nó.

Suy dinh dưỡng, trong lúc còn quá nhỏ,
Nên sự phát triển đã có vấn đề.
Được hội từ thiện Thụy Sĩ đưa về,
Nhưng quá trễ, phải chịu bề tàn tật.

Về phần tôi, còn tiếp tục lây lất,
Hai năm nữa, cho hoàn tất hạn tù.
Mười năm dài, thời tuổi trẻ mịt mù,
Vẫn hiên ngang, cho dù bao ngang trái…

Còn phần anh, trong thời gian ở trại,
Lại tình cờ, được đọc lại lang bang.
Trong tạp chí từ bên Mỹ gởi sang,
Phần nhật ký, mà “em” trang trọng tặng.

Anh đã đọc bản roneo nguyên vẹn,
Và đốt nó, khi đến hẹn lên đường.
Giờ đọc lại, anh thấy rất thân thương,
Gợi trong anh, niềm vấn vương khôn tả…

Anh thảng thốt, biết ai là tác giả,
Dường như là định mệnh đã an bài.
Đã nhắc nhở cho anh luôn nhớ hoài,
Cô em nhỏ, chỉ một ngày gặp mặt.

Và từ đó, khiến anh thường hay nhắc,
Cho mọi người biết, cô rất phi thường.
Đầy hy sinh cao cả, và kiên cường,
Chọn đấu tranh, không tìm đường chạy trốn.

Vài năm sau, khi cuộc sống tạm ổn,
Anh gọi về, thăm bạn chốn quê nhà.
Và luôn tiện, cũng muốn biết sơ qua,
Cô học trò bạn mình mà anh biết.

Thầy tôi cũng loáng thoáng tin chẳng thiệt,
Tôi bị bắt, và đã chết trong tù”.
Thầy không xác quyết, mà nói “hình như”,
Làm cho anh bị suy tư “hành hạ”…

Bầm dập tù đày, không làm tôi gục ngã,
Mất mát tang thương, cũng đã quên dần.
Mãn hạn tù, chưa phục quyền công dân,
Rất khó khăn tìm miếng ăn manh áo.

Thêm những lời tán tỉnh thật trâng tráo,
Của đám cán bộ bất hảo Khóm Phường.
Đã làm tôi không ít, bị tổn thương,
Tạo chán ghét, thêm kiên cường, oán giận.

Nghĩ đến con, tôi rất là ân hận,
Bị tật nguyền, đang sống tận trời Âu.
Chỉ biết tin, qua văn phòng đây thôi,
Là người mẹ, làm sao tôi quên được!

Rồi một hôm, họp bạn trường thuở trước,
Và tình cờ, tôi lại được gặp Thầy.
Ông ngạc nhiên, và buột miệng hỏi ngay,
Ôi mừng quá, em còn đây hở Ánh

Gặp Thầy hôm nay, rất là hân hạnh,
Em hiện giờ, trong hoàn cảnh độc thân.
Chồng đã chết, con không được sống gần,
Ở Thuỵ Sĩ, chưa có lần thăm viếng.

Thầy phân vân, như có gì không tiện,
Và sau đó, Thầy lên tiếng hỏi tôi:
Em còn nhớ thầy S, đã gặp rồi,
Nó hỏi thăm em, thầy tin lời đồn đãi…

Bảo em chết, thật quả là sai trái,
Làm thầy ấy thất vọng, phải buồn hiu.
Giờ gặp em, thầy ân hận rất nhiều,
Thầy xin lỗi, đã nói điều bậy bạ…

Tôi thầm nghĩ, sao anh phải buồn bã?
Chỉ một lần gặp, và đã quá lâu.
Nên tình cảm, nghĩ chẳng có gì sâu,
Chỉ là buồn thoáng qua, đâu gì lạ…

Vào mùa hè, trong một chiều êm ả,
Tiếng phôn reo, tôi bốc trả lời ngay.
Đầu bên kia lên tiếng, thầy S đây,
Em có còn nhớ được thầy không hả?

Tôi ngần ngừ, vì tiếng nghe lạ quá,
Nên lên tiếng trả lời “dạ thưa không”.
Buộc lòng thầy phải nhắc chuyện lòng vòng,
Và đưa ý kiến, “rất mong gặp mặt”…

Hai Thầy đến nhà tôi sáng chủ nhật,
Bữa cơm lần này tươm tất hơn nhiều.
Lại một dịp, tôi thổ lộ những điều,
Hơn hai mươi năm, điêu linh, vất vả…

Mãi đến chiều, và trước khi từ giã,
Anh cho email và luôn cả số phôn.
Để tiện liên lạc, tìm hiểu nhiều hơn,
Tôi vẫn gọi “thầy” như còn xa lạ.

Hồi đó dịch vụ internet còn ít quá,
Muốn nói chuyện, cũng là cả vấn đề.
Hàng mấy cây số, để đi và về,
Mới có nơi để mình thuê dịch vụ.

Chat, email, thư từ, ôi có đủ,
Những tâm tình, được tuần tự kể ra.
Giữa hai người, dù đang sống rất xa,
Vẫn rõ chuyện, cứ như là bên cạnh…

Anh còn đi dạy, một mình rỗi rảnh,
Con học xong, đều cất cánh bay xa.
Vợ ly dị, còn mình anh ở nhà,
Tự do, thoải mái, nhưng mà vắng lặng.

Việc cơm nước, không có ai lo lắng,
Ăn nhà hàng, thì cũng “chẳng đặng đừng”.
Một mình thấy lạc lõng, buồn vô cùng,
Tự nấu lấy, thì không dùng ngon miệng…

Qua trao đổi, cho tôi biết được chuyện,
Đời sống anh bình dị, hiện cô đơn.
Cần có người, để tâm sự sớm hôm,
Nếu hợp tính, tiến xa hơn tình bạn…

Còn phần tôi, sau khi tù mãn hạn,
Xin được vào xưởng gỗ, hãng tư nhân.
Và nhận thấy, nếu muốn được tiến thân,
Ở nơi đâu, cũng phải cần đại học.

Nên cố gắng để vượt bao khó nhọc,
Vừa đi làm, vừa đi học ban đêm.
Sống một mình, đâu có lo gì thêm,
Nên giờ đây, tôi mình ên sống khỏe…

Nếu không gặp anh, thì chắc có lẽ,
Tôi không bao giờ nghĩ sẽ quen ai.
Âu cũng là duyên số đã an bài,
Nên tâm trạng tôi, giờ đây đổi khác…

Sau hai năm, chúng tôi càng thân mật,
Danh từ “Thầy” đã biến mất không hay.
Tiếng “Anh” ngọt ngào đã được công khai,
Hai chúng tôi, không biết ai gọi trước…

Hè năm 2004, Anh bay về nước,
Và đặt vấn đề hôn ước với tôi.
Má tôi nghe, bà im lặng một hồi,
Rồi lên tiếng “già rồi, nghĩ chi nữa”.

Liền sau đó, bà cũng tự bào chữa,
Má chỉ sợ con khổ nữa mà thôi”.
Tử vi nói: “con hết khổ nữa rồi”,
Tôi nói thế, cho má tôi yên trí.

Nhưng trong tôi, vẫn còn đang suy nghĩ,
Rồi đột nhiên, tôi nhìn kỹ dưới chân,
Anh mang hai chiếc tất, màu không cân.
Mới thấy anh, thật bất cần gì hết…

Từ những nhỏ nhặt mà tôi được biết,
Đã khiến cho tôi có quyết định liền.
Không còn phân vân, chuyện anh tục huyền,
Thấy cảnh anh, tôi không yên tâm được.

Tôi không cần biết là họa hay phước,
Ngoài năm mươi, mà vẫn bước đi thêm.
Chỉ vì anh đã cảm hóa được em,
Và thứ đến, là anh đem qua Mỹ…

Lánh xa nơi dối trá đầy đố kỵ,
Mà tôi là người từng bị tổn thương.
Mặc dù đang sống ngay trên quê hương,
Nhưng vẫn luôn muốn tìm đường xuất ngoại…

Anh hân hoan, nhưng giả vờ hỏi lại,
Em bằng lòng, bộ không ngại anh sao?
Cầm tay anh, tôi âu yếm mến trao,
Được gần anh, em không bao giờ sợ…

Tôi thành cô dâu trong hoàn cảnh đó,
Tiệc cưới đơn sơ, chỉ có vài bàn.
Gồm những người rất thân quanh xóm làng,
Và Thầy tôi, người đã mang cơ hội…

Tôi và anh rất vui trong tiệc cưới,
Nhìn hai người đã vào tuổi xế chiều.
Tay trong tay, đang đón nhận tình yêu,
Mọi người chúc chúng tôi nhiều hạnh phúc…

Sau tiệc cưới, và bây giờ là lúc,
Anh về Mỹ, tôi tiếp tục đợi chờ.
Khi nào xong các thủ tục giấy tờ,
Thì lúc đó mới hết lo trở ngại…

Tôi rời quê, cũng mùa hè nắng cháy,
Đợi thủ tục, mất cả thảy một năm.
Tôi đã mất quê hương từ bảy lăm,
Lần đi này, tôi thấy tâm bình thản.

Nghĩ lại thì mình quả là may mắn,
Người vượt biên nào mà chẳng hiểm nguy.
Nếu không may, bỏ mạng trên đường đi,
Được như tôi, thì còn gì mơ ước…

Cám ơn anh, đã dang tay cứu vớt,
Ơn nước Mỹ, cho tôi được tự do.
Đã qua rồi, những khổ lụy, sầu lo,
Giờ là lúc, tôi sống cho tôi thật…

Mấy chục năm, đắng cay đầy nước mắt,
May có được anh dẫn dắt đến đây.
Làm sao mà tôi quên được ơn này,
Luôn yêu anh, và chung xây hạnh phúc.

Như cuốn phim có hậu khi kết thúc,
Hứa với lòng, tròn thiên chức vợ hiền.
Tình đôi ta sẽ mãi mãi bình yên,
Dù muộn màng, nhưng mà duyên… kỳ ngộ…

NGUYỄN SÁU

***

Trở về đầu trang