Trần Minh Quân

 


 

TRÀ Ô LONG, TRÀ PHỔ NHỊ và TRÀ LÊN MEN (fermented tea)

Trần Minh Quân

 

 
1703704703008blob.jpg
 

 

 

 

         Oolong, tên tiếng Anh-Mỹ của một loại trà riêng, Tàu gọi là Wùlóngchá hay Hán -Việt là Ô long trà (Hắc long). Trà truyền thống ‘bán oxy-hóa’ (oxy-hóa nửa chừng) của Tàu, qua một tiến trình gồm phơi nắng lá để làm héo, đồng thời để  oxy-hóa lá trà trước khi cuộn và xoắn. Tên Pháp của Trà là Thé bleu, hay Blue tea (Trà ..lam!).

 
          Tiến trình "oxy-hóa" của Trà ô long có thể xem như ngưng ở "khoảng" giữa hai loại Trà xanh và Hồng trà (hay trà đen).

 
          Đa số các trà ô long, đặc biệt là các loại "cao cấp" được làm từ lá trà của những chủng trồng được chọn lựa riêng. Mức độ oxy-hóa, được điều khiển theo thời gian. giữa khi hái lá và khi phơi vừa đủ, có thể từ 8% đến 85% , thay đổi tùy theo chủng trà và phương pháp sản xuất.

 
          Trà Ô long rất phổ biến tại vùng Nam nuc Tàu và được di dân Tàu khắp nơi trên thế giới ưa chuộng.

 
          Tại lục địa Tàu, việc tiêu thụ Trà ô long chỉ được bắt đầu vào khoảng 1970s. Đa số người bình dân thích hồng trà và thanh trà. Ô long được xem như trà riêng của giới "trí thức"? Tại vùng ven biển phía Nam như Quảng Châu, HongKong, sau đó nhờ Tàu mở cửa kinh tế tiêu dùng nên ô long đến với giới trung lưu..

 

        Trà ô long được Nhà cầm quyền Taiwan cổ võ tiêu dùng từ 1980s, thay thế trà nhập cảng và muốn tạo ra một văn hóa "uống trà" khác biệt với văn hóa "trà" lục địa..

 

         Tên Wulong xuất hiện đầu tiên vào 1857, mô tả một loại Trà trong Sách "Miscellaneous Notes on Fujian" của Shi Hongbao. Tiếng Tàu, oolong cũng được gọi cho qingcha (Hán Việt = Thanh trà = Trà xanh?)

 
         Wulong, có lẽ do một truyền thuyết Tàu: Một nhà trồng trà "thấy" một con rồng đen bay ra từ một bình pha trà, trong bình là những lá trà thơm mùi hạt dẻ.. nên đặt tên cho lá trà này là trà.. ô long..

 
         Truyền thuyết khác cho rằng, Ông Wu Liang, trồng trà, khi chạy đuổi theo các con nai phá vườn, đã quen mất việc sao trà, bỏ mặc lá trà, để lá héo và đổi màu.. Khi pha uống vị trà thay đổi và trở thành ngon hơn các loại trà khác. Tên trà của ông WuLiang bị đọc trại thành Wu Long?

 

         Giải thích theo "Trà để đóng thuế" thì Trà đóng thuế được đóng thành bánh gọi là "Long-Phụng trà"; khi bánh trà rơi ra, những cọng trà dài màu đen và quăn được gọi là Trà Hắc long, hay Ô long?

 

  • Nguồn gốc và vài đặc điểm

 
           Nguồn gốc Trà Ô Long cũng có nhiều giải thích:
 

 
  • Trà Ô long có lẽ từ đời Tống (Song) và là Trà của nông trại trà Beiyan, Phúc Kiến, được tiến cung như để trả thuế.. Trà do Xiong Fan tuyển lựa và chế biến.

 
  • Thuyết khác cũng từ đời Tống nhưng là do Fan Zhonggyun tuyển chọn, chế biến...

 

  • Chế tạo (tóm lược)

 
  • Lá trà được thu hái, lúc không quá non, nhưng đã phát triển đủ lớn và chưa già; thường hái búp non và 2-3 lá gần kề, vào buổi sáng sớm còn sương mai, tạm để nơi khô ráo trước khi chuyển về nơi chế biến, không quá 2-3 gi sau khi thu hái.

 
  • Lá hái về để tự héo, dưới nắng hay trong nhà có mái che trong 3-4 giờ , được cào và đảo thường xuyên..

 
  • Sau đó trà được để qua giai đoạn "lá đổ mồ hôi" "sudation" là giai đoạn chính của oxy-hóa. Để  lá có thể mất nước, xếp lá trên vỉ tre trong phòng có nhiệt độ 22-25°C, độ ẩm 85% cào đảo, lúc đầu đảo nhẹ tay rồi mạnh dần. Trong giai đoạn này, các men bên trong lá trà tạo tác động oxy-hóa và làm đổi màu của lá sang đỏ nhạt, tỏa mùi thơm đặc trưng và người làm trà kinh nghiệm có thể cảm nhận được khi sờ tay trên lá.

 
  • Làm ngừng phản ứng  oxy hóa, bằng sao khô trong vòng 30 giây đến 1 phút ở nhiệt độ 200-260°C. Đây cũng là giai đoạn chuẩn bị cho tiến trình cuộn lá.

 
  • Cuộn lá (còn gọi là quay thơm) có mục đích chuyển các dầu béo và tinh dầu thơm bên trong lá trà ra phía mặt ngoài của lá và trà sẽ tỏa hương khi pha nước sôi.. Thường quay khoảng 18-20 vòng, mỗi vòng 1 phút.

 
Có nhiều cách cuộn lá tùy theo thành phẩm ô long muốn có như vò nát lá, vặn vẹo (torsadée) hay cuốn thành hạt trân châu (lá được bỏ trong bao và phải ép đến 30-40 lần..)

 
  • Sau khi cuộn, lá trà được làm khô ở 100°C  trong khoảng 20 phút, dùng hệ thống làm khô hay dùng thúng đan bằng tre (dành cho loại trà ô long thủ công). Hệ thống làm khô (dessiccateur) trong công nghiệp dùng khí đốt, điện. Vài loại ô long như Yancha, giai đoạn làm khô kéo dài nhiều giờ, thành dạng "rang khô", bên trong lá trà có diễn ra  các biến đổi sinh hóa kiểu Maillard.

 
  • Giai đoạn làm khô sau cùng sẽ làm giảm độ ẩm của thành phẩm xuống còn 4% và sau đó lọc sàng, tuyển chọn, loại bỏ cành nhỏ, phân chia thành các dạng đồng đều để đóng gói..
     
                                     1703787303146blob.jpg
 

 

 

  • Các loại Trà Ô long

 
              Có đến trên 30 nước trên thế giới sản xuất trà Ô long, trong đó quan trọng nhất là Tàu và Taiwan.

 
                 Giới sản xuất Trà Ô Long chia Trà thành 4 loại:
 

 
  • Ô long, oxy-hóa nhẹ, khoảng 10 đến 30% theo phương pháp cổ truyền Tàu, hương vị rất giống Trà xanh, thơm mùi hoa và vị ngọt nhẹ. Tiêu biểu là Ô long  Baozhong = Bảo chủng  của Taiwan.

 
  • Ô long, oxy-hóa mạnh40-70%, theo phương pháp sáng kiến của Taiwan; trà có vị thảo mộc, hương trái cây, có khi có vị caramel.. Tiêu biểu có ô long Dongfeng meiren = Đông phương Mỹ nhân.

 

                 1703777850226blob.jpg   1703777765293blob.jpg1703777781244blob.jpg

 

 Dongfeng meiren oolong tea =  Trà Đông phương Mỹ nhân.
 


 
  • Ô long ủ lâu, rang khô, phương thức Taiwan. Trà tươi được tồn trữ cả chục năm (có khi đến 50 năm). Khí hậu Taiwan làm trà bị ẩm, nên phải đem ra rang khô lại mỗi năm, hay mỗi 2-3 năm tùy nhà sản xuất. Trà có vị đậm và khá đặc biệt có loại Ô long, ủ đến 25 năm!

 
  • Ô long.. tươi, nhưng được rang khô liên tục. Cách sản xuất nhanh này rút ngắn thời gian để có trà xài nhanh hơn, thay vì phải chờ như loại ô long "ủ" lâu..

 

  • Ô long Tàu

 
      Cũng như Hồng trà, Trà Ô long tại Tàu được phân biệt bằng xuất xứ của nơi sản xuất.

 
         Phúc Kiến được xem là Trung tâm của Trà ô long Tàu với hai khu vực sản xuất chính là Vũ Di và  An Khê (Anxi). Quảng Đông cũng có vài danh trà Ô long, đặc biệt là Trà Thiết quan âm.

 
  • Ô long Phúc Kiến:

 
         *A- Vũ Di

 

      Có các trà nổi danh như Dahongpao (Đại hồng bào); Shui Jin Gui (Thủy Kim Quy); BiJiguanTie Luo Han (Thiết la hán).. Shui Xian (Thủy Tiên)..

 

            Dahong-pao ô long:  là danh trà ô long nổi tiếng nhất và cũng đắt nhất trong mọi loại trà của Tàu. Trà đặc biệt, thơm mùi hoa lan và có hậu vị ngọt tồn động khá lâu. Thành phẩm có dạng sợi thắt nút hay hơi xoắn lại, màu xanh-nâu. Nước pha màu cam nhạt/vàng sáng và rất trong.. Trà có thể pha 9 lần liên tục mà vẫn giữ được hương vị..

 
            Trà có sự tích là một Thí sinh lên kinh ứng thí, chẳng may bị bệnh giữa đường và được một nhà sư tại Chùa Tianxin cho uống một tách trà, hái từ Núi Vũ Di.. Thư sinh bình phục và khỏe hẳn, thi đỗ trạng nguyên! Trạng trở lại Chùa cảm tạ Vị Sư và sau đó dùng trà này để chữa bệnh cho Vua.. Vua thưởng cho Trạng một chiếc Hồng bào, và ra lệnh mọi người khi qua vùng này, phải treo một áo màu đỏ trên cành trà.. Cây trà không bao lâu treo toàn áo đỏ và gọi là trà "hồng bào"!

 

            1703778726310blob.jpg 1703778752921blob.jpg
 

                Dahongpao oolong tea = Trà Đại hồng bào
 


 
             Thời Cộng Hòa Tàu (Tôn dật Tiên) 500g trà có thể đổi được 25 tạ gạo hay 10 con trâu. Đến thời CS Tàu, Nhà nước kiểm soát việc trồng và chế biến trà rất chặt, nhân công đều phải là đảng viên CS. Trà sản xuất được phải gửi về Bắc Kinh, dành cho Chủ tịch Mao. Năm 1972, quà Mao tặng cho TT Nion là.. 200g trà Dahong-pao.

 
               Trà tuyệt phẩm làm từ lá hái từ 6 cây Trà cổ thụ còn sót lại trên triền núi Jiulongyu (rặng Vũ di). 6 cây trà này trở thành cây "bảo tàng" của Nước Tàu.. Thành phẩm sau cùng từ cây được giữ tại Viện Bảo Tàng Cung điện Bắc Kinh..

 
                20g Trà của lần sn xut cuối cùng bán đấu giá năm 2005 được 208 ngàn nhân dân tệ! Các sản phẩm hiện nay làm từ lá thu hái từ các cây trà "chuyển chủng" gốc của những cây trà nguyên thủy.

 
                Shui Jin Gui = Thủy kim quy tên một loại trà ô long của Vũ Di. Nước pha trà màu xanh sáng và ‘xanh' nhất trong các loại ô long, và là 1 trong 4 danh trà của Vũ Di (Tứ Đại Danh Tùng (Si-da-míng cóng) gồm Dahongpao, ShuiJin Gui, Tie Lia Han  Bai Ji Guan.            

 
                 Tieluohan  = Thiết la hán: Lá trà xanh đậm, và nước pha màu xanh nhạt hơn, hương  thơm của hoa và vị không chát..

 

             1703779817429blob.jpg1703780581340blob.jpg
 

                  Tie luo han  oolong tea = Trà thiết la hán
 

 
                    Bai Ji guan = Bạch kê quán (kê quán = mào gà): Lá trà từ vàng nhạt đến xanh nhạt; hương vị khác hơn các loại ô long Vũ di khác. Độ oxy-hóa cao 60-80 %

 

                                1703781009827blob.jpg
 

                 Bai Ji guan oolong tea =  Trà Bạch kê quán
 


 
                                 1703786936296blob.jpg
 

 

 

         *B - Ô long An Khê (Anxi)  có Danh Trà Tieguanyin., Huangjin Gui.

 

  1703782154015blob.jpg

 

   1703782410174blob.jpg
 

                Tieguanyin oolong tea Anxi = Trà oolong An Khê /  Huangjin Gui oolong tea.        
 

 

                 Trà Thiết Quan Âm của An khê:  (các tên khác như Ti-Kuan-Yin ; Tit-Kwun-Yum…)

 
Thiết quan âm là một danh trà, nổi tiếng khắp thế giới, sản xuất tại An Khê từ thế kỷ 19. Các loại Thiết quan âm từ các địa phương khác đều không có hương vị đặc biệt của trà An khê.

 

                             1703782915832blob.jpg

 

                 Có hai truyền thuyết về nguồn gốc Trà Thiết Quan Âm:
 


 
  • Tại An Khê, Phúc Kiến có một ngôi chùa đổ nát, bên trong có pho tượng Phật Bà Quan Âm (Bodhisattva of Compassion = Quan Thế âm Bồ tát) đúc bằng sắt, một nhà nông nghèo tên Wei, mỗi ngày khi ra chăm sóc vườn trà đều phải đi qua Chùa và trước tình trạng đổ nát, ông nghèo nên không có phương tiện tu bổ Chùa, chỉ mang chổi đến quét cùng cắm vai nén nhang mang từ nhà đến mỗi tháng hai lần trong nhiều năm. Đức Quan Âm hiện đến với Ông trong một giấc mộng và chỉ cho ông nơi có một kho tàng chôn giấu.. Trong kho báu còn có một cây trà.. Wei chia báu vật cho mọi người và  đem cây trà về chăm sóc. Cây trà phát triển và lá cho một loại trà hương vị đặc biệt.. Wei đặt tên là Trà Thiết Quan Âm. Nhờ bán được trà nên Wei và dân trong vùng đã tu bổ được Chùa và Pho tượng Phật, Chùa trở thành biểu tượng của An Khê.

 
  • Truyền thuyết khác cho rằng, Ông Wang một vị học cao hiểu rộng, đã bất ngờ tìm được một cây trà mọc dưới chân một tảng đá tên Guanyun tại Xiping. Wang mang về trồng và khi đến triều kiến Vua Càn Long lúc năm thứ 6 trị vì, Wang mang dâng trà như một tặng phẩm .. Vua thích thú hỏi về nguồn gốc của trà, ban cho danh hiệu Quan Âm trà..

 

              Phương thức chế biến trà Thiết quan Âm khá phức tạp và cần khả năng chuyên môn. Dù lá trà tươi có phẩm chất cao và thu hái vào lúc tối ưu, nhưng không chế biến đúng cách, thành phẩm cũng không đạt được tiêu chuẩn mong muốn..

 
              Việc chế biến Thiết quan âm phải qua 8 giai đoạn:
 

 
  • Hái lá trà = Plucking tea leaves (căi-qìng = thái thanh , thái=cắt, hái ; thanh=lá xanh)                                         (Chinese: 採青; pinyin: cǎi qīng)

 
  • Làm héo dưới nắng = sun withering (shài-qìng= sái thanh, sài=phơi)
          (Chinese: 晒青; pinyin: shài qīng)
 

 
  • Làm mát = cooling ( lìang-qìng=lương thanh; lương=mát)
           (Chinese: 晾青; pinyin: liàng qīng)  
 

 
  • Đảo = tossing (yáo-qìng)
             (Chinese: 搖青; pinyin: yáo qīng)
 

 
  • Làm héo, kèm oxy-hóa = withering, this includes some oxidation.
              (Chinese: 萎凋; pinyin: wěi diào)
 

 
  • Ổn định = fixation.
                (Chinese: 殺青; pinyin: shā qīng)  
 

 
  • Cuộn = rolling.
                  (Chinese: 揉捻; pinyin: róu niǎn)
 

 
  • Làm khô = Drying.
                    (Chinese: 烘乾; pinyin: hōng gān)
 

 

1703784939421blob.jpg

 


 

 

  • Vài loại Thiết quan âm:

 
     Trà được phân loại theo mức độ rang khô (rang nhẹ có Bạch ngọc Thiết quan âm..), theo mùa hái lá  (Xuân, lập xuân là thượng hạng; Thu, hương thơm nhưng vị kém: Hè, kém nhất) và kèm theo tên nơi sản xuất.

 
       Trà Thiết quan âm  được xem là một trong những loại trà đắt giá trên thế giới, đặc biệt là tại Anh, giá đến 3000 USD/1kg.

 
  • Trà ô long An Khê Thiết quan âm. Hiện nay, ô long An Khê có khuynh hướng chuyển sang gần với Trà xanh, thời gian oxy-hóa thu ngắn (10-15%); Nước trà vàng nhạt sáng ánh kim, thơm mùi hoa và vị thanh nhẹ. Trà theo truyền thống trước đây sẽ được sao kỹ hơn..

 
  • Ô long Muzha Thiết quan âm loại ô long truyền thống, sao lâu hơn nên vị đậm, gần hạt dẻ;  nước pha trà ngả qua màu nâu đỏ ( gần như Hồng trà).

 

            -  Quảng đông

 
             Trà Đơn Tùng (Dancong) còn gọi là Ô long Phượng Hoàng dành để gọi loại ô long lá rời, gốc tại Quảng Đông. Loại trà này nổi tiếng vì có thể cùng lúc có những hương vị khác nhau, từ hoa trái như hoa cam, hoa lan..hoa gừng..

 

                 Đơn tùng, ban đầu để gọi lá trà hái "từ cùng một cây", nay được dùng chung cho tất cả các loại Ô long Phượng Hoàng .

 

              -   Ô long Taiwan

 

              Trà được trồng tại Taiwan từ thế kỷ 18. Các chủng trồng tại Phúc Kiến đều được đem sang Taiwan. Công nghiệp sản xuất Trà tại Taiwan phát triển mạnh từ 1970s theo cùng kinh tế của đảo quốc này. Do nhu cầu nội địa và chi phí nhân công cao nên đa số trà sản xuất tại đảo, đều dùng tại chỗ., năm 2010 chỉ xuất cảng 15% tổng lượng trà sản xuất.

 
              Khí hậu Taiwan thay đổi từng vùng, nên phẩm chất của trà thay đổi theo mùa. Taiwan đất không rộng, địa hình thay đổi có núi cao, vách đá dựng bất thường ngay khi đang từ đồng bằng ven biển. Do khác biệt về thổ nhưỡng, nhiệt độ, cao độ nên trà Taiwan rất đa dạng, hương vị cũng khác nhau. Trà trồng trên núi cao được đánh giá là Trà tuyệt phẩm. Taiwan có 5 đợt hái trà, từ tháng 4 đến tháng 12, trà hái trong các đợt vào tháng 7 và 8 được xem là có phẩm chất cao nhất.

 
     Vài loại như:

 
  • Dong Ding= Đông đỉnh. Trà của vùng núi hạt Nantou, trung tâm đảo Taiwan và tại Lugu (Lộc cốc). Giống trà được đưa đến Taiwan từ Vũ Di (Phúc Kiến), thích hợp với vùng có sương mù buổi sáng. Trà hái mùa Xuân được đánh giá cao, giá khá đắt: 2000 USD/ 800g (2010). Trà Đông Đỉnh (kiểu mới) thuộc loại oxi-hóa "giới hạn" (30%), ngắn nhất  trong các loại ô long Taiwan, chỉ sao nóng 40 phút trên than củi tạo hương vị rất đặc trưng; Trà có dạng bán cầu do cách thức chế biến, lá cuốn thành dạng quả bóng tròn sau khi trải qua nhiều đợt cán, cuốn.. Trà Đông Đỉnh chọn lá trà từ chủng trà “thanh tâm', lâu đời, trồng tại cao độ vùng núi Taiwan.

 
     (Trà Đông đỉnh truyền thống có độ oxy-hóa 60% và sao trong thời gian ngắn hơn).  
 

                          1703726697523blob.jpg
 

                          Dong Ding tea = trà Đông đỉnh
 


 
  • Dongfang meiren= Đông phương Mỹ nhân; còn gọi là Baihao = Bạch hào. Tên Đông phương mỹ nhân là do Nữ hoàng Anh Elizabeth II gọi trà. Trà có đọt non màu nhạt, thuộc loạt trà đắt giá của Taiwan. Hương vị đặc biệt là  do kén của sâu và trứng sâu còn trên lá trà sau khi hái.. Trà có hương thơm trái cây pha mùi mật tự nhiên; nước pha màu đỏ nhạt/cam, không vị đắng.. Thành phẩm khô thơm, màu tím sẫm có pha nâu và lông trắng rất nhỏ..

 
           Ô long "Đông phương Mỹ nhân" là danh trà đặc biệt chỉ sản xuất được tại Taiwan. Chủng trà được chọn riêng, trồng không dùng thuốc diệt sâu. Trà cần có sự sinh sản của một loài "châu chấu trà = tea jassid (Jacobiasca formosana), ăn lá, hút nhựa nuôi chồi và búp non của cây.  Cây phản ứng tự vệ bằng tiết ra monoterpene diol và hotrienol, tạo một hương vị riêng, đặc biệt của trà. Mép ngoài của chồi non chuyển thành màu trắng, nên trà có thêm tên Bạch hào (báiháo wùlóng chá= White-tip oolong).

 
         Do điều kiện sinh sản của "sâu trà" nên ô long Đông phương mỹ nhân cần phải trồng tại vùng khí hậu ấm hơn (vùng đồi Hakka, phía Tây Bắc đảo, cao độ 300-800m) được xem là lý tưởng.

 
          Lá trà chỉ thu hái vào giữa Hè và chỉ chọn được 40-50% lá khả dụng, chỉ chọn búp và 2 lá, nên giá thành phẩm cao ;  lá khi hái có độ ẩm cao, cần thời gian làm héo lâu hơn , trà được oxy-hóa ‘nặng' (70%), ngã về phía hồng-trà.
 
         Muốn có 600g trà thành phẩm phải hái từ 3-4000 lá và đọt trà.

 

                             1703727074994blob.jpg
 

Dongfang meiren tea = trà Đông phương Mỹ nhân - trà Bạch hào
 

  
  • Alishan oolong= A-lý sơn và Lishan oolong = Lê sơn, là những loại trà trồng tại vùng cao độ  trên 2200m  Dayuling olong, cao độ trên 2500m.

 
                    Các loại trà này giá từ 200-500 USD/ 500g
 

 
  • Baozhong = Pouchong Bao chủng  còn gọi là Ô long "nhẹ", cũng chỉ oxy-hóa giới hạn, lá dạng xoắn, thơm mùi hoa, có khi không rang nóng và có thể xem là ở giữa trà xanh và hồng trà? (puchong,  còn có nghĩa là bọc trong giấy).

 
            Trà Baozhong ô long được sản xuất tại Taiwan từ 1810, ban đầu là trà Vũ di do di dân từ Quảng Châu đem vào trồng và dùng hoa nhài để ướp trà để xuất cảng.. Sau thế chiến 2, do thị trường thay đổi, các nhà nghiên cứu trà Taiwan đã lai tạo và biến chủng, làm được một chủng trả riêng dành cho Pouchong Taiwan, lá có mùi thơm riêng, dạng lá vẫn giống lá tại Vũ Di (hoa lục). Nước pha thơm và hương vị cũng khác các loại từ nội địa.

 
  • Jin Xuan= Kim Huyên . Loại ô long được chế biến từ 1980s, còn có tên là Nai xiang (Nại hương=thơm mùi sữa), do vị nhẹ và thơm mùi sữa. Trà Kim huyên không pha thêm sữa nhưng có vị tự nhiên..

 

- Ô long Việt Nam

 
                   Ngành trà Việt Nam cũng gia nhập vào thị trường "thế giới ô long" với các loại trà trồng tại Bảo Lộc (Lâm Đồng) và chế biến theo phương pháp Taiwan.

 
                 Trà được du nhập từ Cao Sơn Taiwan vào vùng có thổ nhưỡng thích hợp Lâm Đồng và phát triển khá thành công. Khởi đầu vào 1988, do các nhà đầu tư Taiwan, Ô long Việt thật sự phát triển từ 1990 với chủng trồng ‘Tứ Quý’ gốc Taiwan.

 

                Ô long Việt Nam thường có độ oxy-hóa khoảng 30%, nên có vị chát nhẹ không gắt; nước pha thường màu vàng sóng sánh đẹp mắt; hương thơm mạnh..

 

  • Cách pha trà ô long:
     

 
            Có nhiều cách pha trà Ô long:
 

 
- Phương thức thông thường của người Tàu là dùng bình-ấm nhỏ (gaiwan) hay ấm bằng đất nung Tử sa Nghi Hưng (Yixing).. Ngâm 1-5 phút tùy người uống và nhiệt độ ở 80-95°C.

 
  • Gaiwan = Chén Khải, dụng cụ dùng ngâm trà hoặc uống trà, gốc thời Minh gồm chén, nắp đậy và dĩa lót. Chén có thể được làm bằng sứ hoặc gốm tráng men bên trong; dung tích chừng 110ml.

 

                                1703788485740blob.jpg
 

                                            Gaiwan = Chén Khải
 


 
  • Ấm-chén Tử sa, làm bằng đất nung ở nhiệt độ cao, không tráng men; tên tử sa vì dùng đất sét tím của vùng Nghi Hưng (GiaTô, Tàu).

                               1703788663261blob.jpg
 

                                     Ấm-chén Tử sa


13 bước pha trà chuyên nghiệp | Hướng dẫn pha trà từng bước đơn giản

Cách Pha Trà

                      
              Cách pha của VN chia làm 5 bước:

 
- Từ chuẩn bị dụng cụ như Ấm, chén (chén Tống và chén Quân), lọc. Lượng pha khoảng 8g/ lần;
 

 
  - Tráng ấm và tráng chén bằng nước sôi 70°

 
  -  Tráng trà: cho 8g trà vào ấm, thêm nước sôi 75-80° vào rồi chắt ra ngay;

 
  -  Hãm trà: cho 200ml nước sôi khoảng 85-90° vào ấm ngâm trong 20-25 giây; rồi lọc qua chén Tống ;
 

 
  -  Uống trà: chiết trà từ chén Tống.. qua chén Quân.. và cảm nhận hương trà trước khi nhấp..

 
            Chén Tống là chén lớn trong bộ dụng cụ pha trà, đa dạng và màu sắc làm bằng thủy tinh, sành sứ; dùng cho trà được rót từ ấm sau khi pha, sau đó sẽ chia cho các chén Quân (nhỏ hơn). Chén Tống giúp kiểm soát độ nóng trước khi dùng và loại cặn..

 

1703789652429blob.jpg  1703789949674blob.jpg
 

        Chén Tống            /          Chén Quân
 


 

 

  • Nghiên cứu khoa học về  trà Ô long

 

         Thư viện Y học Hoa Kỳ PubMed có trên 700 bài nghiên cứu về Trà Ô long, chỉ xin tóm lược vài

 

Trần Minh Quân

 

 

 

 

Trở Về Trang Chính