Bản Tin
THÂN HỮU ĐIỆN LỰC
Số 25

TRONG SỐ NÀY

Thư từ liên lạc

Nguyễn Công Thiuần

Thư cuối năm

Nguyễn Trọng Dzũng

C̣n gặp nhau (Trích liên mạng)

(Thơ) Tôn Nữ Hỷ Khương

Bài phỏng vấn GS NK Nhẫn về điện hạt nhân  Nguyễn Khắc Nhẫn

Viếng bạn miền xa

Sông Đồng Nai

Sung sướng tuổi già (Thơ)

Tràm Cà Mau

Về hưu (Thơ)

Thu Hoa

Chỉ một sát na hơi thở mà thôi

Sương Lam

Người c̣n đó tôi c̣n đây (Thơ)

Sương Lam

T́nh đầu

Hiền Vy

Mạ của con (Thơ- Trích liên mạng)

(Dịch của Susan Schultz) CNB

Bài t́nh thơ tháng sáu (Thơ)

Sương Lam

Louisiana với thành phố New    Orleans                      Lang Thang

Tại sao tôi bị đưa ra Bắc

Nguyễn Trọng Dzũng

Xóm đạo Houston

Nguyễn Phục Hưng

Con gái người dưng

(Trích liên mạng) Hoàng Lan Chi

Đọc báo giùm các bạn

NCT

Dỗ cháu (Thơ)

DLK

Gió mùa thu(Thơ)

Thu Hoa

Chuyện ... lẩm cẩm

Nhiều thân hữu

Tạp ghi i-meo

Nhiều thân hữu

Tạp ghi Hai Hát

Hai Hát

Tấm ảnh năm xưa

 (Thơ)

NMB

Tạp ghi Cậu Năm

Cậu Năm

Tạp ghi Thu Hoa

Thu Hoa

Nhớ về nha Trang Bị (Thơ)

Thu Hoa

H́nh ảnh sinh hoạt

Nhiều thân hữu

T́nh thân hữu bao la

Vơ Văn Hoàng

Dư âm đại hội họp mặt THĐL tại Paris-Brussels, Âu châu, 9/2004

Nhiều thân hữu

Dư âm đại hội họp mặt THĐ Úc châu tại Brisbane, Queensland, Úc, 3/2005

Nhiều thân hữu

Dư âm đại hội họp mặt THĐL tại Montréal, Canada, 7/2005

Nhiều thân hữu

Sổ tay sinh hoạt

Nhiều thân hữu

Chúc mừng

Phân ưu


Bài của Lang Thang

 

 (LTS: Bài này được viết và gửi về bản tin THDL rất lâu trước khi trận băo
Katrina tàn phá New Orleans và tiểu bang Louisiana, vào đầu tháng 9/2005)
 

Thân gửi các anh chị,

Các anh chị D. và anh chị T. đă lên đường đi Úc châu, chúng tôi không đi theo được v́ lư do gia đ́nh nên đành xách va-li đi loanh quanh vài nơi gần gần thuộc miền nam đại lục Hoa kỳ, Louisiana và Texas, theo tinh thần “tấp tểnh người đi tớ cũng đi “ của cụ Tú Xương.

Thật ra mục đích chuyến đi này của hai vợ chồng chúng tôi không hẳn là đi du lịch mà là đi thăm gia đ́nh th́ nhiều hơn. Tuy nhiên, ngoài những sự tiếp đón hết sức nồng nhiệt của gia đ́nh, các em tôi cũng đă dành cho chúng tôi vài ngày đi đó đi đây cho biết "dân t́nh".

Thành phố đầu tiên chúng tôi được đưa đi thăm là thành phố New Orleans.

New Orleans nằm về phía cực nam của tiểu bang Louisiana. Thành phố này có dân số khoảng 6, 7 trăm ngh́n người, trong đó có một số đông người Việt nam sinh sống tại những vùng lân cận thành phố ấy mà tôi không biết đích xác là bao nhiêu.

Chúng tôi khởi hành chuyến đi từ thành phố Shreveport, phía bắc của tiểu bang Louisiana, cách New Orleans khoảng 5 đến 6 tiếng lái xe. Dọc suốt hai bên đường tôi chỉ thấy toàn cây thông (pine) xanh ngát một mầu hay những cánh đồng cỏ tươi trải dài đến tận chân trời. Thỉnh thoảng, tôi thấy rải rác những dải đồng lầy, cây phủ um tùm, kéo dài hàng chục cây số. Nếu không để ư, có khi ta cứ tưởng đang lái xe trên mặt đường xa lộ bằng phẳng b́nh thường nhưng thực ra là ta đang đi trên những chiếc cầu được xây băng qua những vùng đồng lầy bao la ấy.

Xa lộ tốt và không có nhiều xe như ở San Jose. Cảnh vật và đời sống vùng này khá hiền hoà phẳng lặng rất thích hợp cho những ai muốn xa lánh nơi phồn hoa đô hội. Ngay tại thành phố Shreveport, nơi chúng tôi ở chơi với gia đ́nh hai người em cũng thế, có lẽ thuộc khu ngoại ô vắng vẻ chăng, tôi ít gặp ai và chưa hề nghe thấy tiếng động nào đến từ những nhà hàng xóm chung quanh. Có sáng sớm tỉnh dậy, tôi kéo hé cánh màn cửa sổ pḥng ngủ để lấy chút ánh sáng ban mai ngồi đọc sách và nghe chim hót. Cái thích nhất là tầm nh́n không bị vướng chận bởi những hàng rào quanh nhà. Có buổi sáng trời mưa nhè nhẹ, rừng thông sau nhà như phủ mỏng lớp sương mù và ẩn hiện xa xa vài ngôi nhà đứng yên lặng trong mưa. Không một bóng người, không một tiếng động nào ngoài tiếng rơi nhẹ và thưa thớt của nước mưa chảy xuống từ mái hiên nhà. Mọi thứ như ngưng đọng lại với thời gian và thời gian dường như cũng ngưng đọng theo với cái không gian yên tịnh ấy. Yên tịnh nhưng không khô cứng mà là sự yên tịnh của sự an b́nh làm tâm hồn ta dễ trải dài ra và cũng dễ bay cao. Những hôm mưa như thế, tôi thích được ngồi một ḿnh bên cửa sổ nh́n trời buồn và đọc truyện "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao mà tôi đă mang theo.

Chiếc xe hơi tôi lái vẫn cứ vùn vụt thẳng tiến về hướng New Orleans, trên xa lộ 49, với vận tốc 70-80 miles/giờ v́ đường vắng xe. Trong cái thanh b́nh của cảnh vật chung quanh, Triệu, tên người em cột chèo với tôi, ngồi bên cạnh kể cho tôi nghe vài ḍng lịch sử về mảnh đất mà chúng tôi đang đi trên đó. Triệu bằng tuổi tôi, cũng đă về hưu.

Như một nhà sử học, Triệu kể:

Thật là một điều kỳ thú khi ta t́m hiểu về mảnh đất “thuộc địa” Louisiana này. Như ta đă biết, đất nước Hoa kỳ hiện nay chiếm cả một một nửa lục địa Bắc Mỹ có đường ranh giới đông- tây chạy dài từ bờ biển Đại tây dương (Atlantic) sang đến tận bờ biển Thái b́nh dương (Pacific). Phía bắc giáp Canada và phía nam giáp với Mễ tây cơ. Nhưng nếu ta đi ngược lại ḍng lich sử từ lúc khởi đầu lập quốc, nước Hoa kỳ chỉ là một dải đất hẹp dọc theo bờ biển Đại tây dương với 13 tiểu bang đầu tiên của Hiệp chủng quốc. Sau thời kỳ chiến thắng của American Revolution, đất nước Hoa kỳ được mở rộng sang phía tây tới ḍng sông Mississippi và sông này đă trở thành ranh giới phía tây trong thời gian đó. Đó là bước đầu tiên cho sự mở mang lănh thổ của Hoa kỳ.

Bước thứ hai trong việc mở rộng thêm bờ cơi là sự kiện mua lại đất Louisiana từ tay người Pháp. Mảnh đất Louisiana này, so với bản đồ hiện nay, chiếm một phần ba diện tích toàn thể Hoa kỳ (gồm 13 tiểu bang, trong đó có tiểu bang Louisiana ngày nay) (1). Vào thời kỳ đó, cả người mua lẫn người bán đều không biết rơ đích thực diện tích mảnh đất mua bán này là bao rộng.

Việc mua đất Louisiana được diễn ra giữa Tổng thống Hoa kỳ là Thomas Jefferson và Napoleon Bonaparte của Pháp. Đây là biến cố lich sử to lớn của lịch sử Hoa kỳ. Năm 1803, khi Louisiana được mua từ tay người Pháp, ban đầu người dân Hoa kỳ không lấy ǵ làm thích thú lắm v́ phần đất mua này th́ quá xa, chưa hề được biết tới và chưa được khai phá. Tuy nhiên mọi người công nhận ngay được cái lợi điểm tức thời của nó là ḍng sông Mississipi chảy ra vịnh Mễ tây cơ (Guft of Mexico), những cư dân của hai tiểu bang Kentucky và Tennessee có thể dễ dàng chuyên chở nông phẩm của họ xuôi theo ḍng sông Mississippi để đến New Orleans. Thành phố New Orleans này có một thời gian nằm trong tay của người Tây ban nha (Spanish). Những sĩ quan Tây ban nha thường tùy tiện mở cửa hay đóng cửa khẩu sông Mississippi không cho tầu bè của Hoa kỳ qua lại mà không cần một lời giải thích. Tổng thống Jefferson nhận thấy cần phải làm một điều ǵ để giải quyết cho t́nh trạng bấp bênh đó và cũng quan ngại bất cứ một lực lượng ngoại quốc nào kiểm soát được ḍng sông Mississippi và New Orleans th́ đều nguy hiểm cho sự phát triển của Hoa kỳ. Nhân khi người Pháp lấy trở lại chủ quyền thuộc địa Louisiana từ tay người Tây ban nha, Tổng thống Jefferson nghĩ ngay đến những điều ǵ có thể xẩy ra, nếu một ngày nào đó, những người lính tinh nhuệ của Napoleon bất th́nh ĺnh xuất hiện dọc theo bờ sông Mississippi này sẽ làm cản trở tiến tŕnh bành trướng lănh thổ về phía tây của Hoa kỳ trong tương lai.Với những lư do đó, Jefferson ra chỉ thị cho đại diện Hoa kỳ tại Pháp là Robert Livingston đề nghị với chính phủ Pháp mua lại thành phố New Orleans với giá 2 triệu đô la mà không nhắc nhở ǵ đến phần đất c̣n lại, nhưng không được Pháp trả lời. Mặc dù đề nghị này đă được lập lại vài lần nhưng vẫn bị Talleyrand, người đại diện của Napoleon d́m đi, nại cớ Napoleon c̣n rất bận trong những chuyện quan trọng khác hơn nên chưa thể quyết định được.

May mắn thay, một sự kiện bất ngờ xẩy ra: Napoleon bị thiếu hụt ngân sách một cách trầm trọng trong việc mở cuộc chiến tranh mới với người Anh (England). Napoleon biết rơ là không thể sử dụng được thuộc địa Louisiana xa xăm kia vào việc ǵ nên đề nghị không những bán luôn thành phố New Orleans lẫn cả phần đất thuộc địa Louisiana cho Hoa kỳ với giá 15 triệu đô la. Nhiều vị dân biểu Hoa kỳ trong Quốc hội muốn mua, nhưng cũng có nhiều vị khác chống lại, nhưng sau cùng Tổng thống Jefferson đă thắng lợi trong việc mua phần đất này.

Biến cố này có một mối lợi thật hiển nhiên về mặt diện tích là đất Louisiana, sau khi thám hiểm, mới biết nó rộng tới gần một triệu dặm vuông (square miles), lớn bằng 7 lần cả nước Anh (England), Tô cách lan (Scotland) và Ái nhĩ lan (Ireland) hợp lại, hay lớn hơn cả diện tích của nước Pháp, Đức, Ư, Tây ban nha, và Bồ đào nha (Portugal) hợp lại. Giá mua chỉ có 4 xu cho một mẫu vuông (acre). Phần đất Louisiana này đă tạo lập nên được 13 tiểu bang ngày nay cho Hoa kỳ.

Ta cũng nên nói thêm ở đây, việc thám hiểm vùng đất mới mua này được thực hiện ngay năm sau đó, năm 1804. Khởi đầu từ St Louis, ngă ba sông Missouri và Mississipi, dưới sự hướng dẫn của hai nhà thám hiểm trẻ tuổi là Meriwether Lewis và William Clark. Clark là đại úy trong quân đội, 34 tuổi, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu với người da đỏ và có kinh nghiệm về đời sống trong rừng. C̣n Lewis, 30 tuổi, tùy viên (private secretary) của Tổng thống Jefferson được chọn là người đứng đầu cuộc hành tŕnh với nhiệm vụ được giao phó thật rơ ràng là khám phá vùng đất mới mua rộng bao nhiêu, hoạch định con đường đi tới bờ biển Thái b́nh dương và t́m hiểu đời sống của người da đỏ ở những vùng đất ấy.

Gồm tổng cộng 13 người trên 3 chiếc thuyền nhỏ chở đầy lương thực và nước uống, đoàn thám hiểm đi ngược ḍng sông Missouri hướng về phía tây để tới những vùng đất không có đường xá, không có bản đồ và không có bất cứ một hiểu biết nào về nó. Họ dự trù chuyến đi có thể kéo dài một năm, hai năm hay lâu hơn nữa .

Đoàn người gan dạ ấy đă mất sáu tháng đầu tiên để vượt 1600 dặm ngược ḍng sông Missouri. Họ phải ngừng lại v́ tuyết phủ của mùa đông và phải đóng đồn tại nơi, nay thuộc tiểu bang North Dakota. Vào sớm mùa xuân năm sau, tức1805, đoàn lại lên đường hướng về phía có rặng núi đá919;ng bộ lạc da đỏ thân thiện cung cấp ngựa và lương thực. Không những thế, đoàn thám hiểm c̣n được người da đỏ làm hướng dẫn viên trên những con đường nguy hiểm vượt qua dẫy núi Rocky Mountains. Khi tới đỉnh cao của Rocky Mountains th́ hết lương thực, quần áo tả tơi và họ phải chịu đựng cái rét khủng khiếp của mùa đông trên độ cao ấy. Nhưng cuối cùng vào tháng 9 năm ấy ( 1805) họ cũng vượt qua được dẫy núi cao này để tới cao nguyên đất đỏ trải rộng phía dưới. Họ phải tự làm lấy 5 chiếc thuyền nhỏ trôi theo ḍng sông Snake đổ về b́nh nguyên ph́ nhiêu và để rồi trôi đến ḍng sông Columbia đổ ra biển Thái b́nh dương. Ngay cửa biển, họ xây đựng trại Fort Clatsop, mang tên bộ lạc da đỏ ở đây. Đoàn thám hiểm đón lễ Giáng sinh cùng với bộ lạc Clatsop và cùng họ trao đổi quà Giáng sinh. Đoàn thám hiểm ở lại Fort Clatsop để mong có thuyền bè nào đi ngang qua có thể cung cấp thực phẩm cho họ trên đường trở về, nhưng họ hoàn toàn thất vọng.

Tháng ba năm sau (1806) đoàn thám hiểm thực hiện chuyến trở về. Trong chuyến về này, mặc dù không kém phần gian nan, nhưng dù sao đi nữa, họ đă có sẵn một số kinh nghiệm của chuyến đi và nay họ chỉ cần lần về theo con đường cũ. Cuối cùng, họ trở về đến St Louis, nơi khởi hành, vào tháng 9 năm 1806.

Kể từ đầu năm 1804 đến tháng 9 năm 1806, đoàn thám hiểm đă hoàn thành công tác mà nhân dân Hoa kỳ và Tổng thống Jefferson kỳ vọng nơi họ. Họ đă vượt qua một chặng đường dài 8200 dặm đầy phiêu lưu gian khổ.

Đứng về mặt lich sử, chuyến đi thám hiểm này c̣n là chuyến đi mở đầu cho nhiều năm sau đó, những người dân Hoa kỳ có óc phiêu lưu lần lần di dân về vùng đất mới, chinh phục dẫy núi Rocky Mountains để tiến sang tới bờ biển Thái b́nh dương, ranh giới phía tây của Hoa kỳ ngày nay .

Sau khoảng ba giờ lái xe, chúng tôi đi ngang qua thành phố Baton Rouge, thành phố tương đối nhỏ, là thủ phủ của tiểu bang Louisiana. Vài building không cao lắm mọc lên rải rác. Xa lộ được tạm mở rộng ra thành 4 lanes hay 6 lanes, xe chạy tương đối đông đúc. Có khi xe tôi phải chạy chậm hẳn lại v́ phải đi ngang qua khu xây dựng mới. Triệu giúp tôi nh́n đường để khỏi lạc exit của xa lộ 10 và không muốn tôi phải chia trí trong việc lái xe nên câu chuyện về phần đất Louisiana này phải tạm ngưng ở đây.

Khi ra khỏi khu vực thành phố Baton Rouge, xe lại ngon trớn với vận tốc 70-80 miles/ giờ trên con đường vắng xe và cảnh vật chung quanh lại trở nên thanh b́nh trở lại. Có lẽ Triệu sợ tôi buồn ngủ trong lúc lái xe nên lại với giọng kể chuyện của “ ông thầy sử-địa” cắt nghĩa cho tôi vài nét về thành phố New Orleans mà chúng tôi sắp tới.

Triệu kể :

New Orleans là một trong vài thành phố của Hoa kỳ có một lịch sử hết sức lư thú. Đây là thành phố mà số lượng đông đảo di dân người Pháp đă từ Âu châu khởi thủy sang tập trung lập nghiệp và c̣n tiếp tục sinh sống ở đây. Trải qua năm tháng dài gần hai thế kỷ với nhiều đổi thay, họ đă cố gắng giữ lại một phần văn hoá của riêng ḿnh (văn hoá Pháp) như để tô điểm một nét đặc thù cho thành phố New Orleans. New Orleans được người Pháp lập nên vào năm 1718, sau đó 50 năm, vào năm 1769, người Pháp đă bán toàn bộ thuộc địa Louisiana, trong đó có thành phố New Orleans cho Tây ban nha (Spain). Người Tây ban nha đến cai trị thuộc địa này đến năm 1801, nghĩa là khoảng 30 năm sau, đất Louisiana lại trở về tay người Pháp để đánh đổi một phần đất của nước Ư (Italy) do Pháp chiếm cho Tây ban nha. Năm 1803, tức hai năm sau khi lấy lại, Pháp lại bán đất Louisiana cho Hoa kỳ như đă nói ở trên.

Người Pháp sinh sống ở New Orleans rất hoang mang về những thay đổi chủ quyền này. Họ không thích người Hoa kỳ trong thời gian ban đầu, nhưng dần dần họ cũng thích nghi được với chính quyền mới và sau đó họ trở thành những công dân Hoa kỳ.

Một biến cố lịch sử đă mang người Pháp sinh sống tai New Orleans đến gần hơn với người Hoa kỳ, đó là họ đă đứng bên cạnh người Hoa kỳ chiến đấu chống lại sự xâm lăng của người Anh trong cuộc chiến tranh được gọi là "chiến tranh 1812".

"Chiến tranh 1812" là cuộc chiến xẩy ra giữa Hoa kỳ và người Anh. Theo nhận định của nhiều tác giả, cuộc chiến này thật không rơ ràng và không cần thiết cho cả hai dân tộc, chỉ v́ một số dân biểu trẻ tuổi chủ chiến trong Quốc hội Hoa kỳ muốn chiếm Florida và Canada trong tay người Anh trong khi người Anh đang bận tay trong cuộc chiến với người Pháp lúc đó. Tháng 8 năm 1814, sau khi quân Anh khởi binh tiến đánh, đốt phá thủ đô Washington và sau đó họ chuyển quân qua đường biển tiến về thành phố New Orleans. Khi quân Anh đi ngang qua đảo Jamaica, họ tuyển thêm 4000 quân nữa.

Về phía Hoa kỳ, chiến quân được tuyển từ biên giới của những tiểu bang như Kentucky và Tennessee. Người dân Pháp ở New Orleans nhận thức được ḿnh là thành viên của nước Hiệp chủng quốc non trẻ này nên đă đứng về phía Hoa kỳ chống lại quân Anh. Người cầm đầu của Hoa kỳ trong trận chiến đấu bảo vệ New Orleans là tướng Andrew Jackson (sau này trở thành Tổng thống Hoa kỳ). Chiến binh của Jackson chỉ có 5000 người, không có đồng phục, không được huấn luyện, nhưng trong số họ lại có những người thợ săn, bắn rất chính xác và có nhiều kinh nghiệm du kích săn đuổi quân thù. Năm ngh́n quân của Andrew Jackson phải chiến đấu với 10,000 quân tinh nhuệ của Anh. Mặc dầu số quân của Jackson chỉ bằng phân nửa quân Anh nhưng họ vẫn chiến đấu kiên cường với chiến thuật du kích và xa luân chiến, bằng cách di chuyển nấp sau những thân cây hay hốc đá và áp dụng toán đánh toán nghỉ. Trong khi đó quân đội Anh vẫn giữ nguyên chiến thuật chiến đấu cổ điển của Âu Châu thời đó, nghĩa là binh lính xếp hàng ngang sát cánh nhau, hàng hàng lớp lớp, lớp này ngă xuống, lớp kế tiếp tiến lên. Cuối cùng chỉ trong ṿng 20 phút đầu tiên, 2000 quân Anh bị giết thành đống trước chiến tuyến của đội quân Hoa kỳ. Phía Hoa kỳ chỉ thiệt hại có 13 người do họ đă điên rồ (foolish) rời nơi ẩn nấp của ḿnh. Tướng Edward Packenham của Anh cũng bi giết trong trận này.

Tin chiến thắng (1815) tại New Orleans đă được truyền đi khắp nước một cách nhanh chóng và cũng từ sự chiến thắng ấy đă là nguyên nhân chính đem lại sự kết thúc cuộc "chiến tranh 1812" sau đó với những hiệp ước có lợi cho Hoa kỳ.

Thành phố New Orleans nằm bên bờ sông Mississippi, ngay khúc uốn cong nên c̣n có bí danh là Crescent city. Cứ chiếu theo những biến cố lịch sử, ta thấy ngay đây là thành phố có nét hoà hợp văn hoá của Pháp, Tây ban nha, Hoa kỳ để cấu tạo nên những nét văn hoá đặc thù riêng cho thành phố này như âm nhạc, thức ăn, những ngày lễ hội hang năm (Mardi Gras) và những kiến trúc đẹp của ba nền văn hoá ấy.

Triệu c̣n kể cho tôi nghe nhiều điều khác nữa từ thời xa xưa đến ngày nay, không những về lịch sử mà c̣n về sự phát triển kinh tế từ thời nông trại đến thời kỳ kỹ nghệ hoá sau này, lẫn những biến đổi chính trị của những thời kỳ khác nhau của New Orleans chẳng hạn như trong thời kỳ quân đội Union phương Bắc trong Chiến Tranh Nam Bắc (Civil War - April 1861-April 1865) đă chiếm đóng ngay New Orleans năm 1862 trong tay quân đội miền Nam, tức một năm sau khi xẩy ra cuộc chiến này, và dân chúng ở đây phải tuân thủ chính sách cai trị của phương Bắc từ đó cho tới năm 1876. Những điều nghe kể th́ nhiều nhưng tôi không thể nhớ hết và nhớ rơ để viết vào đây.

Đến khoảng trưa, chúng tôi đến trung tâm thành phố New Orleans. Ngoài vài phố chính lớn và đông đúc của khu thương mại, con đường trung tâm mang tên Canal được nhiều người biết đến hơn cả, c̣n lại phần lớn những đường phố ở New Orleans tương đối nhỏ, những con đường ngang dọc quanh khu French Quarter phải nói là chật hẹp rất khó lái xe.

Chúng tôi lái dọc theo dẫy phố bờ sông. Khu French Quarter nhộn nhip với lượng du khách khá đông đảo. Người ngồi ăn lan cả ra vỉa hè và nhất là quán Café du Monde nổi tiếng th́ lúc nào tôi cũng thấy đông nghẹt .

Lái xe ṿng ṿng quanh thành phố độ một giờ, chúng tôi đi t́m khách sạn đă “book” từ hôm trước: khách sạn Inter Continetal, 4 sao rưỡi, khá khang trang. Khách sạn ở ngay trung tâm thành phố nên chúng tôi có thể đi bộ ra bến tầu hay khu French Quarter hay buổi tối có thể thả bộ đến đường Bourbon nổi tiếng về đêm.

Sau đó, chúng tôi lại trở lại khu French Quarter, đi bộ dọc theo hai con đường Decatur và Chartres, người đi chen chúc, ồn ào bởi những nhà hàng ăn lẫn gift shops dọc theo hàng phố. Đâu đâu cũng có ban nhạc của người da đen. New Orleans đúng là kinh đô của âm nhạc người da đen, đặc biệt nhất là loại nhạc Jazz. Chúng tôi ghé một quán ăn trên đường Decatur được bầy bán cả ra ngoài đường, order một cái sandwich loại lớn nhân thịt giá chỉ có 13 đô la, nhưng có thể chia làm bốn, mỗi người một phần ăn vừa đủ no, kèm thêm mỗi người một món soup đặc sản, thế là đủ "căng bụng" để có thể tiếp tục đi chơi.

Sau đó chúng tôi đi dọc theo phố này để tới thăm khu chợ được gọi là French Market. Khu đất này, vào thời người Pháp mới lập nghiệp, người Da đỏ cũng tới đây buôn bán. Đến năm 1800 th́ chợ được xây dựng thêm gồm cả Farmer’s Market tọa lạc ở phía cuối. Ngay đầu chợ được xây một cái cổng dựa theo h́nh thể tượng trưng của kiến trúc Khải hoàn môn như ở Paris nhưng quá đơn giản và xấu xí, trên có đề chữ French Market. Bên trong chợ bán đồ lưu niệm như mọi chợ bán lưu niệm khác, không có ǵ đặc biệt như cái tên French Market cả, chỉ trừ những gian hàng quần áo, boutiques hay gift shops có bảng hiệu bằng tiếng Pháp mà thôi. Giá một hộp Café du Monde ở đây là 6 đô la, chợ Việt nam tại San Jose bán với giá 2 hay 3 đô la một hộp cùng loại là cùng. French Market giống chợ bên Mễ hơn là Pháp. Người bán hàng ở đây nói tiếng Mỹ, nếu có người nói tiếng Pháp th́ cũng chỉ bập bẹ ú ớ dăm ba tiếng với du khách mà thôi. Chung quanh chợ, nổi bật nhất là những gian hàng bán khăn quàng lông (lông vũ) dài thườn thượt nhuộm màu xanh đỏ tím vàng dùng để quấn vào cổ trong những ngày lễ hội hóa trang Mardi Gras.

Mardi Gras là những ngày lễ hội lớn có tính truyền thống và đặc thù của New Orleans. Ngày hội Mardi Gras kéo dài từ tháng giêng cho đến hết tháng hai hàng năm. Du khách từ khắp nơi đổ về đây để xem hội. Mọi người đều có thể đeo mặt nạ, ăn mặc hóa trang diễn hành và nhẩy múa trên phố một cách tự do. Họ ném những tràng hạt xanh đỏ quàng cổ cho nhau. Những ngày đó, New Orleans tràn ngập sóng người, chen chúc nhau mà đi, khó có thể t́m được chỗ đậu xe, mà nếu có kiếm được th́ cũng phải trả với giá tối thiểu là 40 đô la một ngày. Những người làm việc ở khu vực French Quarter phải chung nhau thuê “shuttle” để sáng đưa họ đến làm việc, chiều tối đón về.

Nói chung, khu French Quarter chỉ rộng có chục đường ngang dọc mà thôi, nếu đi bộ thoáng qua theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” với “walking tour” th́ khoảng hai giờ là đi hết phần chính của khu này rồi.

Rời khu đông đúc của French Quarter, chúng tôi đi ngược dọc theo cũng con phố Decatur ấy để đến quảng trường Jackson (Jackson Square), quảng trường này trước đó nó có tên là Place d’Armes dưới thời Pháp và tên Plaza de Armas dưới thời Tây ban nha, và sau được đổi tên thành quảng trường Jackson kể từ năm 1848 để vinh danh vị tướng này trong trận đánh bảo vệ New Orleans như đă nói ở phần trên. Tại quảng trường này có tượng Jackson rất lớn, được coi là một trong những bức tượng đẹp nhất của đất nước. Đối diện với quảng trường Jackson về phía đường Chartres, tức hướng về phía thành phố, là nhà thờ Saint Louis to lớn và đẹp, có kiến trúc với 3 tháp nhọn. Nhà thờ này được xây hoàn tất vào năm 1794, đến năm 1851 được sửa lại thành kiến trúc sau cùng như ta thấy ngày nay. Dọc theo những con đường thuộc khu nhà thờ và quảng trường có hàng chục xe ngựa chờ đợi đưa du khách đi ṿng quanh thành phố.

Ngay sát quảng trường Jackson, hướng về phía bờ sông là công viên Washington với khẩu súng thần công đúc rất đẹp. Trên đường Decatur cũng c̣n một bức tượng mạ vàng sáng chói, rất đẹp, có cờ Pháp bên cạnh, tôi đoán là tượng bà Jeanne d’Arc cưỡi ngựa, nữ anh hùng của Pháp.

Chụp chung với nhau vài tấm ảnh kỷ niệm nơi đây rồi chúng tôi ra xe t́m đường ra xa lộ 10 để lái qua chiếc cầu Pontchartrain được mệnh danh là một trong những chiếc cầu dài nhất thế giới. Chiếc cầu này được xây băng qua Lake Pontchartrain nối liền thành phố New Orleans với thành phố khác bên kia hồ, chiều dài đúng 25 dặm. Lái xe trên chiếc cầu này, hai bên chỉ là nước, không thấy bờ đâu, làm tôi nhớ lại những chiếc cầu dài nối liền các đảo ở Florida thuộc vùng Key West. Tất nhiên vùng Key West th́ đẹp hơn nhiều.

Đến tối chúng tôi đi chơi phố Bourbon. Phố Bourbon nổi tiếng ăn chơi về đêm. Đây là con phố nhỏ, hai xe hơi đi ngược chiều tránh nhau hơi khó. Dọc theo hai bên phố Bourbon đa số là những quán nhạc hay bar rượu. Các ban nhạc người da đen mặc sức biểu diễn. Khu phố này nhà xây theo kiểu hai tầng sát vách, trên là bar, dưới cũng là bar. Có vài "em" đứng trước cửa bar mời gọi du khách bằng cách lật áo cho "xem một tư" rồi chỉ tay lên lầu theo kiểu mời "phải anh là lính, mời anh lên lầu" (lối nói kiểu thuốc lá Pall Mall ngày nào). Ḷng đường cấm xe qua lại ban đêm nên du khách có thể đi lại thoải mái. Chúng tôi chỉ theo ḍng người đi lang thang chứ không vào bar nào cả. Thỉnh thoảng chúng tôi chỉ dừng chân lại trước những quán nhạc xem tŕnh diễn ké ở bên trong. Cả khu phố vang lên những tiếng nhạc trộn lẫn với tiếng cười đùa. Vài toán dân nhậu tụ tập trên lan can ở những từng lầu trên nh́n xuống ḍng người đi dưới đường, người dưới đường ngước lên nh́n đám dân nhậu phía trên, lời qua tiếng lại rất vui vẻ ồn ào, ồn ào ngang với những thành phố Mễ nằm gần biên giới của San Diego. Ồn ào, vui chơi nhưng vẫn giữ được trật tự bởi sự canh pḥng rất nghiêm của những cảnh sát viên đi ngựa, loại ngựa Mông cổ trông to lớn kềnh càng làm sao. Con đường "ăn chơi" này được kéo dài khoảng mươi block ngắn, nghĩa là dài khoảng hơn một dặm (mile) mà thôi. Con đường Bourbon này c̣n kéo dài nhưng không ai muốn ra khỏi khu đông đúc đă được giới hạn v́ sợ nguy hiểm về an ninh.

Thành phố New Orleans được mệnh danh là "thủ đô của nhạc Jazz" là "thủ đô của lễ hội hóa trang Mardi Gras", “Thủ đô của béo ph́” và cũng được mệnh danh là "thủ đô của tội phạm bắt cóc giết người", đấy là nhận xét của người địa phương nói lại với chúng tôi.

New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana, một tiểu bang miền nam nước Mỹ nặng về nông nghiệp nên có đông đảo người da đen bị bắt cóc đem từ Phi châu về đây làm nô lệ từ thế kỷ trước. Những người da đen này sau khi được giải phóng, một số nhỏ dời lên những tiểu bang miền Bắc để làm công nghiệp, đa phần c̣n lại vẫn tiếp tục ở lại sinh sống trong t́nh trạng nghèo khổ, và cũng chính do sự nghèo khổ này nên dễ sinh ra những tệ nạn xă hội ở đây.

Sáng sớm hôm sau chúng tôi lái xe trở lại khu French Quarter ăn điểm tâm. Mọi du khách đến khu này, ai cũng đến quán Café du Monde nổi tiếng cả thế kỷ nay để thưởng thức hương vị café ở đây ít nhất một lần. Họ bán café sữa (café au lait) gồm một nửa café và nửa sữa nóng pha sẵn giống theo kiểu café "bí tất" của ta chứ không phải café filtre với sữa đặc như tôi tưởng lúc ban đầu. Uống café sữa "bí tất" du Monde với bánh “đô-nắt” (doughnuts hay beignets) kiểu Pháp, nghĩa là h́nh khối vuông to bằng nửa nắm tay chứ không h́nh vành khăn hay tṛn như của Mỹ. Mỗi đĩa đựng từ 3 tới 6 “đô nắt” tùy theo là đĩa nhỏ hay đĩa lớn. Trên mặt bánh “đô nắt” người ta trải một lớp "đường bột" giống như bột ḿ vậy (dusted sugar). Ăn bánh “đô nắt” nhâm nhi cốc café du Monde, chỉ có thế thôi, vâng, chỉ có thế thôi, mà lúc nào quán café này cũng đông nghẹt những người. Có lẽ du khách không phải đến đây để thưởng thức hương vị cà phê mà tôi cho là dở ẹc, mà họ đến đây để ngồi tại ngôi quán có một lịch sử lâu đời hơn cả trăm năm (1862), quán ấy nay đă trở thành biểu tượng của khu phố French Quarter này. Cũng không thể trách hương vị café ở đây được v́ mỗi người có một cách thưởng thức với hương vị khác nhau và nhất là giá bán thật b́nh dân, 1 đô la rưỡi một cốc café lớn, đĩa “đô nắt” nhỏ gồm 3 chiếc giá 3 đô la, vừa túi tiền du khách, kể cả loại du khách "Tây ba lô" nghèo đói. Với giá đó tôi tự hỏi ta c̣n đ̣i hỏi ǵ thêm nữa nhỉ.

Thất vọng với hương vị café thua cả vợ pha, dù là rất tay mơ, nhưng được bù lại tôi có một chuyện vui vui xin kể cho các anh chị nghe.

Khi chúng tôi vừa bước vào quán Café du Monde, tôi thấy một người tiếp viên có vẻ là người Việt nam, chúng tôi bèn hỏi chuyện làm quen. Anh cho chúng tôi biết tên anh là Dũng, làm việc ở quán này đă lâu. Chúng tôi làm thân rất nhanh với anh và anh cứ lẩn quẩn bên chúng tôi nói chuyện. Trong lúc đó tôi cũng chợt nhận ra một người tiếp viên thứ hai đứng gần đó là người Việt nam. Tôi được anh Dũng cho biết tên anh ta là Đỉnh (dấu hỏi) mà tôi nghe sao lại thành tên Định (dấu nặng). Khi anh Đỉnh đi lại gần phía chúng tôi, tôi đứng lên làm như đă quen biết anh từ lâu nay mới gặp lại, niềm nở hỏi anh :

- Anh Định, Anh Định có nhớ tôi không ?

Đúng là "vỏ quưt dầy gặp móng tay nhọn", anh Đỉnh cũng chào mừng tôi không kém phần vồn vă :

- Ồ, anh Hiếu, lâu quá mới lại gặp lại anh, từ nẫy đến giờ tôi cứ ngờ ngợ mà không dám nhận .

Thế là tự nhiên tôi thành anh Hiếu nào đó trong trí tưởng tượng của anh, mà trong khi đó anh Đỉnh th́ lại biến thành anh Định. Điều ấy thật chẳng có ǵ là quan trọng trong việc làm quen, chúng tôi cứ tay bắt mặt mừng nắm tay nhau tṛ chuyện. Tôi thấy anh ân cần quá, với gương mặt thật thà chân thật làm sao, khuôn mặt lộ rơ cái vẻ có lẽ cả cuộc đời anh chỉ biết cầu kinh và tin vào Đức Chúa. Cái chân thật và sự tiếp đăi nồng hậu của anh làm tôi hơi ngượng và nghĩ là anh nhầm thật nên không dám bông đùa với anh nữa. Anh Đỉnh mời chúng tôi thêm café và một đĩa bánh “đô nắt” thật đầy, anh không tính tiền, anh tặng chúng tôi bằng chính tiền túi của anh. Chúng tôi cố gắng trả tiền anh dù đă năm lần bẩy lượt nhưng anh vẫn không chịu nhận. Cuối cùng, đợi đến khi ra khỏi tiệm tôi phải dúi tiền vào túi áo anh và đi ra thẳng không cho anh có cơ hội trả lại tiền chúng tôi nữa. Anh Đỉnh đứng nói chuyện với chúng tôi lâu lắm. Chúng tôi cứ phải dục anh đi làm kẻo người chủ sẽ làm phiền đến anh nhưng anh vẫn quyến luyến chúng tôi, anh cho chúng tôi cả số điện thoại ở nhà lại c̣n vẽ bản đồ hướng dẫn đường cho chúng tôi đến thăm một trong những ngôi "làng VN" (cách gọi của anh Đỉnh) cách đó khoảng 20 phút lái xe.

Có hai người khách "xộp" mặc complet cà vạt đến ngồi bàn bên cạnh chúng tôi mà anh Đỉnh vẫn không chịu tiếp. Anh nói bọn khách trông có vẻ "xộp" nhưng lại thường rất "bủn" (keo kiệt). Anh kể có một lần một "vị" khách thuộc loại "xộp", complet cà vạt chỉnh tề, cho "tip" anh có 3 cent. Anh đổ 3 cent ấy xuống bàn không nhận. Vị khách "xộp" này nổi giận vào mách ông chủ, anh bị phạt nghỉ việc 3 ngày. Anh Đỉnh cho biết thêm, vào những ngày lễ hội Mardi Gras, mỗi người tiếp viên của Café du Monde chỉ phục vụ có 4 bàn mà thôi và trong tiệm có khoảng trên 50 người tiếp viên, người Việt nam ta chiếm tới 37 người. Anh Đỉnh cho biết thêm có đông tiếp viên người Việt nam là v́ người VN ta chịu khó làm việc nên đă đẩy lần những anh tiếp viên Mỹ về vườn. Anh Đỉnh tính trung b́nh mỗi ngày thường anh kiếm được khoảng 80 đô la tiền “tip”, ngày lễ Mardi Gras hay những ngày lễ lớn khác th́ có thể kiếm từ 100 tới 120 đô la một ngày. Anh Đỉnh trước kia làm Dental Asistance nhưng sau đó xin nghỉ việc để làm tiếp viên ở đây.

Chúng tôi từ giă anh Dũng và Đỉnh sau khi chụp vài tấm ảnh kỷ niệm, vội vă ra bến tầu để kip đáp chuyến tầu mang tên Natchez, với h́nh dáng loại tầu cổ điển, chở du khách đi dọc sông Mississippi trong ṿng hai tiếng đồng hồ. Dọc theo bờ sông tôi thấy có nhiều cơ xưởng kỹ nghệ nằm rải rác, có cả nhà máy luyện nhôm, nhà máy lọc dầu nữa. Ngồi nh́n cảnh sông nước và ngồi ăn trưa trên tầu lại được thưởng thức ban nhạc Jazz chơi cũng là điều thú vị. Tôi thấy có hai hàng đê được đắp dọc bờ sông v́ mực nước sông cao hơn mặt thành phố đâu khoảng 5 feet. Được sự đồng ư của người mechanic, Triệu và tôi lần ṃ vào pḥng máy để ṭ ṃ t́m biết thêm cách vận hành ra sao của cái “guồng nước” lớn sơn màu đỏ chói đang quay nước ở phía sau tầu, nó là động lực chính để đẩy tầu đi. Trước đây, trong thời kỳ xa xưa, chiếc tầu này chạy bằng hơi nước, nay bằng dầu diesel.

Sau khi rời tầu Natchez chúng tôi lái xe đi thăm khu "làng Việt nam" như đă được anh Đỉnh
giới thiệu. Làng này có khoảng 10 ngh́n người Việt nam, chắc phần đông là người Thiên Chúa giáo. Tôi thấy có hai ngôi nhà thờ lớn trong khu giáo dân và một ngôi chùa mầu đỏ ngay mặt đường lớn có vẻ mới được xây dựng trông rất khang trang. Làng này có "khu chợ" Việt nam riêng với đủ dịch vụ cần thiết như thực phẩm khô và tươi, văn pḥng nha khoa, bác sĩ, luật sư, tiệm phở và nhiều cửa hàng đủ loại khác nữa, không thiếu thứ ǵ, nhưng kích thước, bề thế th́ c̣n nhỏ.

Chúng tôi ở lại đây một thời gian ngắn đủ để ṭ ṃ t́m hiểu những sinh hoạt của làng này, sau đó lái xe thẳng tiến sang tiểu bang Texas. Những thành phố Dallas, Houston, Galveston, Corpus Chriti, San Antonio đang chờ đợi chúng tôi.

Ở New Orleans c̣n có sở thú (zoo) và nhà nuôi cá (Aquarium)... Viện bảo tàng. New Orleans không phải chỉ có French Quarter mà chúng tôi vừa thoáng đi qua mà thôi, nó c̣n là thành phố cổ kính và có nhiều di tích lịch sử với sự pha trộn của những nền văn hóa lớn, ắt hẳn c̣n nhiều điều cần xem, cần biết nhưng thật tiếc chúng tôi không có th́ giờ để đi thăm nhiều hơn.

Nh́n chung, chuyến đi chơi New Orleans này đối với tôi thật là thú vị v́ biết được những thắng cảnh, những sinh hoạt của người dân bản xứ sinh sống ở thành phố này hàng bao đời. Họ đă đổ bao nhiêu xương máu để tạo dựng nên mảnh đất ngày nay mà chúng ta đang được thừa hưởng. Mỗi bước chân tôi đi trên thành phố ấy, tôi thấy như ḍng lịch sử cứ quay ngược trở lại để chúng tôi có cơ hội chiêm ngưỡng và thán phục sự đóng góp của những người đi trước với ḷng biết ơn và sự kính trọng của riêng tôi.

Tôi chỉ có một lời kết luận xin gửi đến các anh chị :

"Đất nước Hoa Kỳ là mảnh đất hứa dành cho những người có óc phiêu lưu, khôn ngoan, đầy quả cảm với trái tim yêu thương và ḷng bác ái.


Lang Thang

 
(1) Gồm một phần hay toàn phần của những tiểu bang sau: Minnesota, Iowa, Missoro, Arkansas, Louisiana, North Dakota, South Dakota, Nebraska, Kansas, Oklahoma, Montana, Wyoming, Colorado.

Sách tham khảo và trích dịch :
- The Land And The People ( Robert Dixon)