|
Tháng 4 năm ngoái, lần đầu tiên kể từ khi ra khỏi nước tôi gặp lại anh TAK. Một trong những câu đầu tiên anh hỏi tôi sau những câu thăm hỏi thông thường là: “Tại sao tụi nó lại đưa toa ra Bắc?” Câu hỏi đó đă đặt ra với tôi trong suốt hơn một phần tư thế kỷ kể từ sau ngày tôi ra khỏi cái gọi là “trại học tập cải tạo Phú Sơn 4, Bắc Thái”. Hầu như bất cứ ai quen, thân hay sơ, khi gặp lại tôi lần đầu đều đưa ra câu hỏi đó. Cũng không có ǵ lạ khi bạn bè và người thân thắc mắc như thế. Họ đều biết quá khứ của tôi, đi học, tôi cắm đầu vào sách vở, đi làm, tôi làm công việc kỹ thuật của một kỹ sư. Chức vụ dân sự cuối cùng là Phụ tá Giám đốc Nha Trang bị, Công ty Điện lực Việt Nam. Cấp bậc quân đội tương đương binh nh́ sau khi qua đợt huấn luyện quân sự 9 tuần. Tháng 6, 1975 tôi đi “tŕnh diện học tập cải tạo” với “tội danh ngụy quyền”. Với quá khứ đó, dưới con mắt của những người đặt câu hỏi, tôi không thuộc thành phần “ác ôn”. Ngay chính tôi thoạt đầu cũng phân vân tự hỏi không biết v́ sao VC lại xếp tôi vào thành phần phải đưa ra miền Bắc. Cho măi đến sau này, khi ra tù, suy ngẫm kỹ tôi mới t́m được câu trả lời. Một câu trả lời không đơn giản và không phải chỉ trong vài phút có thể diễn đạt hết được cái thâm ư và tính quỷ quyệt của VC. Có rất nhiều lư do được những người quen biết tôi nghĩ tới. Người th́ cho là tại tôi có thời gian dài làm việc bên cạnh các phái đoàn cố vấn Mỹ. Người th́ cho là tôi đi tu nghiệp Mỹ năm 1973, năm Việt Nam hoá chiến tranh. Người ở trong cùng tổ tù với tôi cho là tại tôi viết lư lịch quá chi tiết, kê khai tất cả gia đ́nh cha mẹ anh em mười mấy người di tản hết. Hầu hết những dữ kiện đó đều đúng. Nhưng nó không phải là lư do đă đưa tôi vào danh sách tù cải tạo bị đưa ra Bắc trên chuyến tầu Hồng Hà cuối tháng 10 năm 1976. Hay nói cho đúng hơn đó chỉ là lư do được lập luận theo cách của chúng ta, từng sống trong một xă hội pháp trị. Trong đầu của người cộng sản không có cái logic đó. VC đưa tôi ra Bắc tháng 10 năm 1976 để rồi chưa đầy 2 năm sau, tháng 2 năm 1978 thả cho tôi về không ǵ khác hơn là một tiểu xảo quỷ quyệt của chúng. Khi VC ra thông cáo “tŕnh diện học tập cải tạo”, nhân viên Công ty Điện lực VN bị đưa vào trại cải tạo Long Thành, tổng số cả 2 đợt tháng 6 và tháng 8/1975 là 75 người. Chức vụ cao nhất là Tổng giám đốc, thấp nhất là Trưởng ty và Trưởng pḥng. Lần lượt qua vài lần “cứu xét” một số lớn được cho về. Đến tháng 9, 1976 c̣n lại dưới 20 người. Tôi viết “cứu xét” là dùng chữ của VC, và tôi đề nghị bạn đọc cũng chỉ nên hiểu ư nghĩa của từ ngữ này theo cách của chúng. Đừng dùng cái logic của chúng ta để lập luận rằng trong mấy “đợt tha” từ Long Thành chúng đă truy lục hồ sơ, đối chiếu tờ khai lư lịch, trước khi kết luận cho ai về ai ở. Lúc công bố quyết định “tập trung cải tạo 3 năm” có thể chúng đọc kỹ hơn để phân loại, chứ c̣n trong giai đoạn mấy tháng đầu ở Long Thành tôi không tin là chúng đă làm như chúng ta nghĩ. Điển h́nh như đợt tŕnh diện đầu tiên tại trường Nữ Trung học Gia Long. Sau 3 ngày, tổng số tŕnh diện và “đủ tiêu chuẩn học tập” lên đến hơn 1100. Vài hôm sau, có một số được gọi tên cho về. Ai cũng đoán già đoán non về lư do được thả, nào là “có công với cách mạng”. Nào là thuộc thành phần gia đ́nh “cách mạng”, gia đ́nh “liệt sĩ” hoặc có giấy bảo lănh. Nhưng thực tế trong số ở lại cũng c̣n nhiều người thuộc thành phần đó. Cho đến khi có thêm đợt 2, tŕnh diện tại trường Trưng Vương, một vài người đă được thả ra hôm tháng 6, lại thấy quay vào, mọi người mới vỡ lẽ. Lư do là khả năng nhập trại Long Thành lúc đó chỉ dự trù cho 1000 người, nhưng đợt đầu tại các nơi đă có tới hơn 1100 người tŕnh diện. Chúng phải cắt bớt số dư. Tất nhiên là chúng cũng lật danh sách coi chức vụ từng người. Gặp một chức vụ không có trong ngữ vựng của chúng như “Trưởng hệ thống”, hay một chức vụ được tên cán bộ lập danh sách hiểu là “nhẹ” như “Tổng thư kư …” thế là người đó được lấy tên ra cho về. Đến khi số c̣n lại vừa đúng 1000 th́ ngưng, không “cứu xét” thêm nữa. Kết quả là nhiều trường hợp 2 người chức vụ giống hệt nhau, một người về một người ở lại. Chắng phải v́ người về có bảo lănh hay “có công” ǵ cả, và cũng chẳng phải v́ người ở lại có tội trạng ǵ ác ôn hơn. Tất cả chỉ là một anh hên, một anh xui. Anh hên được chúng ḍ đến tên khi con số trong danh sách nhập trại hăy c̣n trên 1000 người. Anh xui có tên nằm đâu đó trong danh sách, chưa ḍ đến tên anh th́ đă đủ túc số, thế là ngưng. Giản dị chỉ có vậy mà đă gieo rắc bao nhiêu bàn tán, đoán già đoán non trong tù. “Bàn”, “đoán”, “săn tin” (tất nhiên là tin vịt) là những sinh hoạt thường trực của hầu hết mọi người tù trong những tháng đầu bị nhốt. Nếu ăn uống là nhu cầu vật chất, th́ trong tù rỉ tai là nhu cầu tinh thần không thể thiếu. VC biết rơ cái nhu cầu này, dù cấm đoán cũng không hết được nên chúng đă tương kế tựu kế, kiểm soát rỉ tai bằng cách chính chúng tung tin cho mọi người rỉ tai nhau. Tôi cũng cần nói rơ thêm một chi tiết là : trại Long Thành dành cho “ngụy quyền” ngay từ ngày đầu được giao cho đám “ḅ vàng” thuộc Cục Quản giáo bộ Nội vụ VC quản lư. Khác với những trại tù dành cho sĩ quan quân đội VNCH do Ủy ban Quân quản, thuờng là những đơn vị bộ đội VC, quản lư. Cách quản lư tù của bộ đội tàn bạo hơn, sẵn sàng dùng sắt máu, nhưng không quỷ quyệt và thâm độc như cách quản lư của đám quản giáo chuyên nghiệp trong ngành công an. Vào Long Thành tù được chia ra ở trong những dăy nhà dài, mỗi dăy từ 150 đến 180 tù, do một tên cán bộ quản giáo phụ trách. Tôi ở dăy số 3 gọi nôm na là “nhà 3” do Năm Tiêu làm quản giáo. “Nhà 2” có Tư Khâu, “nhà 6” có Ba Tơ. Dù không ở “nhà 2” hay “nhà 6”, tôi vẫn nhớ rơ về 2 tên này v́ tính cách đặc biệt của chúng. Tư Khâu nói giọng Thanh Nghệ Tĩnh, răng đen mă tấu, mặt bủng da ch́, rất hắc ám. Hắn được mệnh danh là “hung thần” v́ bất cứ một sai phạm nội qui nào của người tù cũng có thể bị hắn bắt bẻ, hành tội. Ngược lại Ba Tơ nói giọng miền Nam, một người xuề x̣a có vóc dáng trắng trẻo mập mạp, bề ngoài dễ dăi trong chuyện để cho người tù “thảo luận, học tập” cũng như đề ra “chỉ tiêu lao động”. Lâu lâu giờ nghỉ buổi tối hay ngày cuối tuần Ba Tơ la cà “xuống tổ” ngồi uống trà hút thuốc, nói chuyện trên trời dưới biển với tù. Trong những lần “xuống tổ” như thế thỉnh thoảng Ba Tơ lại rỉ tai cho một vài tổ trưởng những tin tức mà mọi người muốn biết. Từ tin vô thưởng vô phạt như sắp có căng-tin bán nhu yếu phẩm cho tù, đến “tin tối mật” như sắp có đợt xét tha, bao nhiêu người được về, v.v... Nhất nhất Ba Tơ x́ ra tin nào trúng phóc tin đó. Khi có đợt chuyển trại đầu tiên, chúng tôi chẳng ai tin lời giải thích của quản giáo “các anh các chị được đưa đến một nơi có điều kiện học tập tốt hơn”. Nhất là khi danh sách gồm rất nhiều vị chức sắc cao cấp của VNCH như Chủ tịch Hạ viện, Phó Thủ tướng (trong chính phủ DVM), Trưởng phái đoàn VNCH tại Ḥa đàm Ba Lê, v.v... Nhưng Ba Tơ khẳng định số người ấy được đưa về Thủ Đức chứ không đi đâu xa. Ít lâu sau tin này được kiểm chứng qua thư từ của gia đ́nh tù gửi vào, xác nhận lời Ba Tơ là đúng. Điều này khiến mọi người nghĩ rằng “chức sắc” như mấy vị đó mà chỉ bị đưa về nhốt trong nhà tù Thủ Đức thôi th́ chắc là “ḿnh được học tập” ở đây cho đến khi về chứ không bị đầy đi nơi rừng thiêng nước độc nào nữa. Chúng tôi lại càng tin như thế khi dăm ba tháng thấy có người được thả, lúc dăm ba chục, lúc đông tới con số trăm. Khiến người tù càng “yên tâm cải tạo”. Cứ như thế, dần dần “tin của anh Ba Tơ” trở thành nguồn tin đáng tin cậy, chẳng khác nào đài BBC, hay VOA. Ba Tơ thủ vai lường gạt một cách thật xuất sắc. Nhưng cái xảo quyệt của bọn quản giáo không dừng ở đó. Trong tù đề tài được rỉ tai nhiều nhất, được bàn tán sôi nổi nhất, cũng như được phân tích kỹ lưỡng nhất giữa những người tù với nhau là : thời gian cải tạo bao lâu. Thông cáo “mang theo thực phẩm đủ dùng cho 30 ngày” đă đánh lừa những người đi tŕnh diện tháng 6. Quá 30 ngày chưa thấy động tĩnh ǵ, tháng 10 có thêm những người tŕnh diện đợt 2 được chuyển vào trại. Người tù vẫn cố t́m một cách giải thích khác cho con số “30 ngày” này là “30 ngày sau khi khởi sự học tập”. Rồi học tập chính trị 10 bài xong chưa đủ, c̣n phải qua giai đoạn lao động cải tạo nữa. Trong khi đó lâu lâu lại có một “đợt khoan hồng”, tạo cho người tù hy vọng đợt tới có thể ḿnh sẽ được về dù chưa “học tập” xong. Một trong những người luôn luôn lạc quan chờ ngày ra trại của ḿnh là anh TVA, Tổng thanh tra Xi măng Hà Tiên. Tôi không nhớ rơ sau khi vào tù bao lâu chúng tôi được viết thư về gia đ́nh. Địa chỉ nhận thư được ghi như sau : “Ḥm thơ số 15NV, bộ Nội vụ”. Không ai biết, cũng chẳng ai bàn tán, đoán già đoán non về cái bí số 15NV này mang ư nghĩa ǵ, nhưng nó là đầu đề khiến hai người bạn tù giận nhau. Anh KTK, nghị sĩ Thượng viện VNCH đọc trại cái bí số 15NV này thành “mười năm anh về” rồi cứ thế anh nửa đùa nửa thật bàn rằng đây là cái điềm ít nhất mỗi người phải “lột đủ 10 cuốn lịch”. Điều này làm anh A. bất b́nh, cho rằng anh K. nhạo báng những lời bàn lạc quan của ḿnh. Tháng 7-1976 mọi người được nghe đọc “quyết định tập trung cải tạo 3 năm”. Cuối tháng 9-1976 tù được phép viết thư về nhà báo cho gia đ́nh thăm nuôi. Đây là lần đầu tiên sau hơn một năm chúng tôi được gặp mặt thân nhân. Tin thăm nuôi, tất nhiên cũng được Ba Tơ rỉ tai trước cả tuần lễ. Mọi người đều trông ngóng. Tinh thần được bơm lên cao. Rồi cái bao tử cũng được bơm theo nhờ có đồ tiếp tế. Đầu tháng 10 được gặp gia đ́nh, cuối tháng một số chúng tôi bị chuyển trại ra Bắc. Có người đặt câu hỏi phải chăng trong con người VC vẫn c̣n sót lại một chút “nhân chi sơ tính bản thiện”, đă cho tù được gặp mặt gia đ́nh trước khi đưa đi đày. Tôi không tin như thế. Suy nghĩ kỹ mới thấy rơ được thâm ư của VC. Chuyến thăm nuôi nhằm mục đích bơm cho người tù một chút hơi vào cái đầu và một chút hơi vào cái bụng. Bơm hơi vào bụng để tù có sức đương đầu với một chuyến đi dài, khổ cực, và những tháng đông giá rét và đói khổ ở miền Bắc. Bơm vào cái đầu để người tù không tuyệt vọng. Cái phương thức quản lư “không dồn tù vào sát chân tường” này được cục Quản giáo của VC áp dụng một cách triệt để. Chúng không để người tù chết chẳng phải thương tiếc ǵ một vài nhân mạng. Song chúng biết tâm lư con người, khi thấy cái chết đe dọa trước mắt, người tù do bản năng sinh tồn sẽ có thể vùng lên, một thắng hai huề với chúng. Chiều ngày 25 tháng 10 (hoặc cũng có thể là 24, tôi không nhớ chắc) nhà bếp phát cơm sớm, mọi người được lệnh “khẩn trương” ăn uống rồi tập họp “lên hội trường học tập”. Chúng tôi hồi hộp nuốt vội vàng chén cơm, chẳng ai tha thiết ǵ tới việc nấu nuớng “bồi dưỡng” như vẫn làm kể từ hôm được tiếp tế. Mấy ngày trước, “tin tuyệt mật của anh Ba Tơ” đă nói về đợt chuyển trại này, nên khi nghe nói “lên hội trường” mọi người hiểu ngay điều ǵ sắp sảy ra, chạy đi t́m nhau dặn ḍ, nhắn gửi, “nếu tôi đi …”, “nếu anh ở lại …”, “nếu anh về trước …”. Trên hội trường ngoài mấy tên “ḅ vàng” của ban Quản giáo trại, tôi thấy có một số mặt lạ, mặc quần áo mầu xanh. Chúng loan báo “để thi hành quyếtđịnh tập trung cải tạo, một số các anh sẽ được đưa đến một nơi có điều kiện học tập tốt hơn”, lập lại in đúc câu chúng đă nói trong đợt chuyển trại về Thủ Đức mấy tháng trước. Chúng đọc một danh sách khoảng hơn 400 người, ra lệnh về pḥng thu dọn tư trang và tập hợp lại tại hội trường. Trong tổng số gần 20 người thuộc Công ty Điện lực VN c̣n ở lại Long Thành lúc đó, có 3 người nằm trong danh sách. Đó là ông Tổng Giám đốc HTP, ông Giám đốc Hành chánh NVT, và tôi. Một vị khác, anh NQT, trung tá, Giám đốc nha Tiếp vận đă theo đợt di chuyển đầu tiên từ mấy tháng trước về Thủ Đức. Ngày hôm sau VC làm thủ tục xét tư trang. Tôi không nhớ đây là lần khám xét thứ mấy trong thời gian hơn một năm ở trại Long Thành. Mỗi lần như thế là một lần chúng tôi bị chúng lấy đi những “món quư giá” của người tù. Mỗi người được phép giữ lại một túi nylon hoặc một túi xách nhỏ đựng đồ dùng vệ sinh cá nhân, c̣n bao nhiêu bỏ hết vào một bao bố loại 50kg do chúng cấp phát. Bao bố được chất lên xe camion chở đi trước “cho đỡ cồng kềnh”, như lời chúng giải thích. Qua cung cách chuẩn bị như thế, ai cũng đoán lần này chuyển trại đi xa chứ không về Thủ Đức như đợt trước. Vài người c̣n dựa vào màu xanh đồng phục hải quân của đám người lạ mặt và đám tài xế xe camion, diễn giải rằng chuyến di chuyển này sẽ đi bằng tàu. Như để cho khớp với lời đồn đoán đó, “nguồn tin của anh Ba Tơ” cho biết “các anh ấy sẽ được đưa ra học tập lao động ở Phú Quốc”. Đúng quá rồi ! Phú quốc phải đi bằng tàu chứ làm ǵ có đường nào khác.Và thế là cả người sắp đi lẫn người c̣n ở lại cảm thấy nhẹ bớt nỗi lo âu, tự trấn an “dù sao Phú Quốc cũng vẫn c̣n ở miền Nam”, không bị hai chữ “ra Bắc” ám ảnh, hoang mang tinh thần. Đến chiều ngày thứ ba, chúng kêu tập hợp, xếp hàng đôi, điểm danh rồi c̣ng từng cặp hai người với nhau leo lên xe camion. Anh TVA và tôi chung một c̣ng. Khoảng nửa đêm chúng tôi xuống xe ở bến Tân Cảng dưới chân cầu Xa Lộ. Lại điểm danh, hai người một, vẫn c̣ng chung, bước lên con tầu có tên Hồng Hà. Chúng tôi bị dồn vào hầm chở hàng phía mũi tầu, cách mặt boong tầu khoảng 10, 12 thước, bằng ṭa nhà 3 tầng. Khi mọi người xuống hết, th́ hầm tầu cũng vừa chật ních, không thể ngả lưng, chỉ ngồi duỗi chân dựa vào nhau, nếu một ngựi nằm th́ một người khác phải ngồi bó gối. Nắp hầm đóng lại, bên trong tối như bưng, kín mít, ngột ngạt. Gần sáng tầu khởi hành. Chúng tôi cố t́m cách định hướng nhưng không được. Măi đến chiều hôm sau khi nắp hầm mở ra để tiếp tế nước uống, mặt trời rọi bóng nắng sang thành tầu bên tay mặt, mọi người không ai nói với ai đều hiểu rằng mặt trời chiều, tức hướng Tây, ở bên tay trái, như vậy là tầu đang trực chỉ hướng Bắc. Nỗi lo sợ từ gần một tuần nay, tưởng đă được “tin của anh Ba Tơ” xóa tan, nay hiển hiện trước mắt. Không ai c̣n muốn bàn tán ǵ về nơi đến sắp tới là đâu nữa. Hai chữ “ra Bắc” coi như tận cùng của đầy ải rồ́, chẳng cần phân biệt là đồng bằng, trung du hay thượng du nữa. Dù Hà Nam Ninh, Bắc Thái, Lạng Sơn, hay Đầm Đùn Thanh Cẩm, trại nào cũng thế mà thôi. Anh TVA, ngồi dựa lưng với tôi từ lúc xuống tầu, nói nhỏ “Ḿnh bị đưa ra Bắc rồi Dũng ạ”. Giọng lạc quan của anh trong suốt mười mấy tháng tôi ở chung “nhà 3” với anh, biến mất hết. Đối với chúng tôi trên con tầu Hồng Hà, mặt nạ của Ba Tơ trong vở kịch lường gạt đến đây đă rớt xuống. Nhưng đối với những người c̣n ở lại Long Thành, họ vẫn đinh ninh chúng tôi được đưa ra Phú Quốc, và không biết ǵ về chuyến đi ra Bắc này cả. Sau này có anh về từ Hàm Tân c̣n so b́ rằng tôi được đi Phú Quốc, gần biển “sướng chết”, đâu có cực khổ với đồng khô cỏ cháy như Xuyên Mộc, Hàm Tân. Hai ngày c̣n lại trên tầu, anh TVA và tôi tâm sự với nhau nhiều. Anh hỏi tôi những câu mà qua đó tôi đoán là anh muốn t́m hiểu về “thành phần” của tôi để so sánh với anh. Đại loại như ngày xưa tôi có đảng phái Dân chủ, Cần lao ǵ không, đi lính tôi đeo tới lon ǵ? ... Nghe câu trả lời của tôi, anh thắc mắc “vậy tại sao nó lại đưa toa ra Bắc nhỉ?” Về sau, nói chuyện với nhiều người khác, như anh NVC, Trung tá Không quân, Dân biểu Quốc hội, ông NPQ, Viện Giám sát, ông MVA, TAB, Chánh án Ṭa thượng thẩm, v.v… tôi được biết thêm các quư vị ấy đều lấy làm lạ về sự có mặt của tôi trên chuyến tầu. Nhưng chính sự có mặt của tôi cũng như của một vài người tương tự như tôi, đă có tác dụng như một đám bèo mà quư vị ấy cố bám vào để gạt đi cái ám ảnh của chuyến tầu đi Bắc này là một "chuyến hàng" đặc biệt, hàng loại “A”, loại sẽ đi tù mút mùa. Đấy cũng chính là mục đích của VC. Chúng đă thành công để cho người tù không suy luận được về những ǵ chúng sẽ áp dụng với họ, không suy luận được họ bị chúng xếp vào thành phần nặng nhẹ thế nào. Từ đó chúng dễ dàng đánh lừa về cái chúng gọi là “chính sách khoan hồng cho những người cải tạo tốt”. Nghĩ lại tôi thấy ḿnh thật ngờ nghệch – và chắc chắn tôi không phải là nguời duy nhất – không biết ǵ về cái gian trá, quỷ quyệt của VC trong việc giam giữ chúng tôi. Ngờ nghệch tin vào cái thông cáo “mang thực phẩm đủ dùng trong 30 ngày”, vào Long Thành mà cứ ngong ngóng đếm từng ngày cho hết con số 30. Khi con số đó đă nhân lên gấp 3 gấp 4 lần, tôi vẫn hy vọng “một ngày về không xa”, chẳng mảy may nào nghĩ tới có lúc ḿnh phải ngồi trong hầm chứa hàng của con tầu Hồng Hà, bị đưa đi đầy ải trong một trại khổ sai mang tên “Phú Sơn 4” Bắc Thái. Cho đến khi nằm co ro trong giá rét và đói khát của trại Phú Sơn 4, tôi vẫn ngờ nghệch tin vào cái “quyết định 3 năm tập trung cải tạo”, ngờ nghệch chờ đợi tới ngày thứ 1095 của mốc thời gian “3 năm”. Trong khi đó VC vẫn tiếp tục lừa bịp người tù bằng những “đợt khoan hồng nhân ngày lễ lớn”. Chẳng ai ngờ đuợc là chỉ hơn 3 tháng sau khi đặt chân lên miền Bắc, đầu năm 1977, anh MT, một Dân biểu Quốc hội VNCH, được thả cho về. Tất nhiên là sau đó chúng lại “lên lớp” giải thích, nào là “chính sách khoan hồng của Đảng”, nào là anh MT “học tập tốt, tiến bộ”, “biết ăn năn hối cải”, v.v... và v.v… Nói cho cùng, nếu tôi không ngờ nghệch, dù có kinh nghiệm về VC thế nào đi nữa, ở hoàn cảnh nằm trong rọ như vậy chưa chắc tôi đă biết ḿnh phải làm ǵ để sinh tồn. Cái hy vọng một “ngày về không xa” đă nuôi dưỡng sự chờ đợi, giúp cho tinh thần khỏi phát điên phát khùng. Suốt một năm đầu tiên ở Phú Sơn 4, không một lần được tiếp tế, chúng tôi lâm vào cảnh đói triền miên. Một buổi chiều trên đường lao động về, đi ngang chuồng ḅ thấy băi phân, trong một tích tắc đồng hồ tôi bỗng hoa mắt nh́n ra đó là cái bánh bông lan. Tuy chưa nhào tới vồ, đưa vào miệng, nhưng sau đó tôi vô cùng lo sợ. Tôi biết tôi đang ở bên bờ của khủng hoảng tinh thần, cứ đà này sẽ có ngày phát điên. Tôi cố moi t́m ra những yếu tố lạc quan trong cảnh tù tội và hy vọng. Trong mục đích này anh TVA và tôi đă giúp nhau rất nhiều. Chúng tôi sống dựa tinh thần vào nhau. Ăn xong cái Tết thứ nh́ ở trại Phú sơn 4, Bắc Thái, sáng ngày 17 tháng 2 năm 1978, tôi và một anh nữa, Bác sĩ DHM, Giám đốc Viện Pasteur, được gọi ra khỏi hàng đang điểm danh lao động. Rồi được dẫn lên văn pḥng ban Quản giáo kư nhận "giấy tha". Thật bất ngờ chẳng kém ǵ 17 tháng trước đó tôi bước xuống tầu trên bến Tân Cảng. Trái ngược lại với cái ngờ nghệch trong suốt 3 năm qua, lần này tôi nghi chúng đưa anh M. và tôi đi nhốt một nơi khác, nhưng làm bộ như chúng tôi được thả để đánh lừa những người tù c̣n lại trong trại. Kư nhận giấy tha, nhưng chưa được cầm trong tay. Ngồi trên xe com-măng-ca nhưng vẫn bị bít bùng. Từ Bắc Thái chúng đưa chúng tôi về nhốt tại trại Nam Hà gần Hà Nội. Rồi suốt 3 ngày 4 đêm ngồi trên xe lửa xuôi Nam, chúng tôi vẫn bị c̣ng vào nhau. Chưa có dấu hiệu ǵ gọi là “tự do” cả. Tại trại Nam Hà tôi gặp lại anh NQT. Té ra từ trại Thủ Đức anh đă ra Bắc trên cùng chuyến tầu Hồng Hà với tôi, anh nằm trong hầm chứa hàng phía đuôi tầu, và bị giam giữ tại trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa. Để kiểm chứng cái nghi ngờ của ḿnh, tôi xin với tên cán bộ áp tải, cho tôi được gửi điện tín về Sài g̣n báo tin để vợ con tôi ở xa về đón. Tôi nói dối là gia đ́nh tôi đă đi kinh tế mới. Bị từ chối tôi càng nghi ngờ hơn. Ngồi trên chuyến xe lửa hướng về miền Nam, tôi vẫn không thấy “hồ hởi” chút nào. Cho tới khi đặt chân lên nhà ga Sài g̣n (lúc đó c̣n nằm ở địa điểm cũ trên đường Lê Lai), được tháo c̣ng, nhận “giấy ra trại” tôi mới thực sự tin là được thả . Tổng cộng tôi xa gia đ́nh 1018 ngày, bằng 34 lần của con số “30” trong thông cáo “mang theo thực phẩm khi tŕnh diện”, nhưng vẫn chưa tới mốc 1095 ngày của quyết định “3 năm tập trung cải tạo”. Tôi bị đưa ra Bắc nhưng lại được về trước hơn cả một vài anh trong số những nhân viên Công ty Điện lực c̣n ở lại Long Thành, như các anh TKK, PXH, ... Có phải tôi bị đưa ra Bắc v́ tôi là thành phần “ác ôn” không ? Chắc là không. Có phải tôi đă “học tập tốt”, đă “tiến bộ” nên được “khoan hồng trước thời hạn” không? Chắc là không? Vậy th́ tại sao? Câu trả lời sẽ t́m ra nếu chúng ta lục trong cái hồ lô chứa những tṛ gian trá xảo quyệt của Việt cộng. Tôi bị đưa ra Bắc rồi từ đó cho về, chẳng qua tôi chỉ là một mồi nhử, đánh lừa những người ở lại. Cũng như chính tôi đă từng bị chúng gạt bằng những chuyến về của các bạn tôi ở Long Thành. Về con số 3 năm trong quyết định tập trung cải tạo công bố tháng 7, 1976 : Tại sao lại 3 năm, mà không phải là 5 năm, 7 năm hay 10 năm, trong khi có nhiều người bị giam giữ gấp mấy lần 3 năm? Theo tôi có lẽ VC đă dựa vào một bản nghiên cứu tâm lư vế khả năng chờ đợi, khả năng chịu đựng của con người để đưa ra con số này. Phương thức giam giữ tù cải tạo của chúng là không dồn tù vào sát chân tường, không để cho tù lâm vào t́nh trạng hoàn toàn tuyệt vọng. Thật vậy, ra tới miền Bắc, tôi nhắm vào cái mốc 3 năm mà trong đó tôi đă có gần 17 tháng “thâm niên” tại Long Thành, tính ra c̣n 19 tháng nữa Thôi th́ hăy rán sức chịu đựng, chờ đợi đến ngày đó, cũng chỉ dài tương đương bằng thời gian đă qua ở Long Thành. Mồi
nhử để câu cá phải làm sao hấp dẫn cho cá cắn câu. Đối với người tù, mồi
nhử của VC chắc chắn chẳng hấp dẫn ǵ, nhưng ít nhất chúng đă thành
công, tạo hy vọng cho người tù dựa vào đó mà sống qua ngày, không điên
khùng, không quẫn trí, không vùng lên. Và cứ thế có người đă chịu đựng 2
lần, 3 lần, và thậm chí 4 hay 5 lần 3 năm.
|