|
Xóa Dấu Vết Tội Ác
(Lời nhắn của "người đọc báo": Bạn N. thân, Cám ơn bạn đă nhắc nhở và hỏi thăm. Bạn nhớ đúng, tôi đă ở đó. Tôi đă ở đảo tị nạn Kuku 1 tháng, ở đảo Galang 10 tháng. Tôi đă không tham dự được chuyến "hành hương" tháng 3, 2005, thành ra tôi không chứng kiến tận mắt, nhưng tôi theo dơi rất kỹ các sinh hoạt của nhóm người hành hương, đă vô cùng xúc động khi họ dựng lên các bia tưởng niệm ở Bidong và Galang. Ba tháng sau, ngay khi nghe tin và nh́n thấy h́nh tấm bia bị đục bỏ, tôi trào nước mắt, ḷng mang nặng một niềm căm phẫn. Mời bạn đọc bài viết tuyệt vời của Phạm Phú Minh tôi trích lại đây. NCT)
(Bài của Phạm Phú Minh – Trích Tạp chí Thế kỷ 21, Cali, số 195, tháng 7, 2005) Khuynh hướng tự nhiên của những kẻ gây tội ác là cố gắng xóa đi những dấu vết tội ác do ḿnh gây ra. Những kẻ cướp của giết người che dấu tội lỗi của ḿnh để tránh bị bắt bớ trừng phạt đă đành, những chế độ chính trị ác nghiệt cũng hay có khuynh hướng bôi xóa, thủ tiêu, che đậy những điều thất đức ḿnh đă làm. Đức quốc xă trong những ngày sắp bại trận đă ra sức tiêu hủy những hồ sơ liên quan đến các ḷ sát sinh giết người Do thái; chế độ Stalin giết mấy ngàn sĩ quan Ba lan trong ṿng bí mật tại rừng Katyn, qua bao nhiêu đời lănh tụ cộng sản vẫn dấu nhẹm đổ tội cho Đức quốc xă, cho đến bây giờ dù nước Nga đă nhận tội, hồ sơ tội ác đó vẫn chưa được công bố. Đối với những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt nam trong thập niên 1950, Cộng sản Việt nam cũng ra lệnh xóa tan không c̣n dấu vết bằng cách không cho thân nhân dựng bia cho người đă chết; tập thể những trí thức thuộc Đệ tứ quốc tế bị chế độ Hồ Chí Minh giết khoảng 1945, 46 tại miền Nam th́ cho đến gần đây các đao phủ vẫn c̣n sống cả, thế mà vẫn cứ chối quanh, người nọ chỉ người kia. Vụ thảm sát Tết Mậu thân ở Huế sờ sờ ra như thế, mà người cộng sản Việt nam cũng không hề một lần mở miệng nhận việc ḿnh làm. Hiện tượng dấu nhẹm ấy cho thấy một điều: những kẻ gây tội ác biết đó là tội ác, và do một nỗi sợ, hoặc do một bản chất gian dối, không muốn cho người khác, đời nay hoặc đời sau, biết là ḿnh đă làm việc đó. Họ luôn luôn đóng vai đạo đức giả, nghĩa là bản chất th́ cực kỳ gian ác, mà bề ngoài th́ làm ra vẻ ḿnh là kẻ rất đạo đức. Riêng những thảm cảnh người vượt biên gặp phải trên biển cả, trên đất liền từ năm 1975 đến đầu thập niên 1990, người cộng sản có thể coi là ḿnh vô can. Họ làm họ chịu, chúng tôi nào có mắc mớ ǵ? Chúng tôi chỉ lo xây dựng một Việt Nam xă hội chủ nghĩa, mấy người bỏ trốn đi là đă can tội phản quốc ("yêu nước là yêu chủ nghĩa xă hội" - Lê Duẩn), vậy có bị cái ǵ th́ rán mà chịu, chúng tôi không cần biết. Cùng những loạt đạn bắn theo ghe thuyền vượt biên, những lời chửi rủa xấu xa ném theo những người ra đi th́ nhiều vô số kể, đó là những lời xấu nhất mà một chế độ, một nhóm người có thể dùng để gửi đến những người công dân, người đồng bào tội nghiệp của ḿnh khi họ không c̣n con đường sống hợp với nhân phẩm, phải ra đi để t́m sự sống trong cái chết. Nhưng nhờ ơn tổ tiên phù hộ, nhờ cánh tay đưa ra của phần nhân loại không theo chủ nghĩa cộng sản, mấy triệu người Việt nam trong khoảng 15 năm, đă t́m được đất sống, sau khi khoảng nửa triệu đă vùi thây dưới biển cả, trong rừng sâu. Người ra đi lặng lẽ chịu đựng những thảm cảnh của chính ḿnh và thân nhân, lặng lẽ lo gầy dựng cuộc sống mới trong tự do mà ḿnh đă t́m được. Cũng nhờ cuộc sống tự do ấy, người Việt nam tị nạn cộng sản vun bồi được đời sống tinh thần và đạo đức, không quên ơn ông bà tổ tiên, không quên thân nhân và đồng bào ruột thịt c̣n sống ở quê nhà, và nhất là không quên cái ơn lớn lao mà dân và chính phủ các nước đă cưu mang, giúp đỡ ḿnh trong cuộc đi t́m tự do thập tử nhất sinh diễn ra cách đây mấy mươi năm. Chính trong tinh thần ấy mà vào đầu năm nay, nhiều phái đoàn người Việt nam tị nạn cộng sản từ khắp thế giới đă mở những cuộc "hành hương" về những bến bờ đă đón tiếp ḿnh từ tay biển cả trong các cuộc vượt biên xưa. Và như một cử chỉ cụ thể để tỏ ḷng biết ơn các quốc gia đă cứu vớt ḿnh, người Việt tị nạn cộng sản đă xin phép chính quyền sở tại đặt những tấm bia kỷ niệm tại nơi ngày xưa đă là trại tạm trú đầu tiên của những người đặt chân lên được đất sống. Với tấm ḷng có trước có sau, người tị nạn chỉ ghi lại những lời tri ân hay lời tưởng niệm; là những thứ người ta nghĩ là có thể tồn tại với thời gian v́ ư nghĩa nhân bản phi chính trị nhất thời của nó. Chẳng hạn lời dịch sau đây từ tấm bia viết bằng tiếng Anh, dựng trên đảo Bidong thuộc tỉnh Terengganu nước Mă lai Á vào tháng Ba 2005: "Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt nam đă thiệt mạng trên đường t́m tự do (1975-1996). Dù họ đă chết v́ đói, khát, bị hăm hiếp, bị kiệt sức hoặc v́ một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được hưởng yên b́nh vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lăng. Các cộng đồng người Việt hải ngoại, 2005." Và những ḍng chữ mặt bia bên kia: "Để nhớ ơn những nỗ lực của Phủ Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc, Hồng thập tự Quốc tế và Hội Lưỡi liềm đỏ Malaysia và các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, chính phủ và nhân dân Malaysia cùng các quốc gia đă cung cấp nơi tạm trú đầu tiên cũng như nơi tái định cư. Chúng tôi cũng xin bày tỏ tri ân đến hàng ngh́n cá nhân khác từng làm việc hết ḿnh để giúp đỡ người tị nạn Việt nam. Các Cộng đồng Người Việt Hải ngoại." Một tấm bia tưởng niệm những người đă chết thảm trên đường đi t́m tự do và tri ân sự giúp đỡ cho những người sống sót: chừng đó đă đủ để chính quyền cộng sản Việt nam vận dụng các thủ thuật ngoại giao để xóa bỏ nó đi. Họ đă vận động với chính phủ Mă lai Á để phá bỏ tấm bia trên đảo Bidong, với chính phủ Indonesia để phá bỏ tấm bia tương tự trên đảo Galang. Với lợi ích ngoại giao trước mắt th́ các chính phủ liên hệ thấy không có vấn đề lớn lao ǵ để không thỏa măn các đ̣i hỏi xem ra không quan trọng ǵ mấy đối với họ. Và thế là các tấm bia chứa đựng biết bao tâm t́nh, biết bao tấm ḷng thành kính và thương yêu trước hương hồn của những người đồng bào kém may mắn đă bỏ thây trong biển cả, đă hoặc sắp bị triệt hạ. Chỉ v́ Hà nội muốn như thế. Hà nội nhằm cái ǵ trong sự vận động này? Muốn giữ một "lư lịch sạch sẽ" trong lịch sử? Muốn giữ một "bộ mặt sạch sẽ" trước thế giới? Muốn không ai được hiểu rằng sở dĩ người Việt nam phải bỏ nước ra đi là do chính sách tịch thu tài sản ruộng vườn, "đánh tư sản" một cách triệt để, do chính sách kỳ thị một cách khốc liệt không cho con cái của quân nhân công chức cũ của miền Nam được ăn học trong chế độ mới của họ, do giam hăm tù đày hàng triệu người, do tước đoạt hết quyền tự do và quyền làm ăn sinh sống của cả một xă hội miền Nam để lùa mọi người vào cái trại lính mà họ gọi là xă hội chủ nghĩa?... Mấy triệu người vượt biên t́m tự do chính là lời tố cáo tội ác của họ, nhưng họ vẫn muốn trốn tránh những vết tích cụ thể trong vùng Đông Nam Á chứng tỏ là đă có thảm cảnh của người Việt nam trong sóng nước đại dương thuộc vùng này. Khi vận động phá bỏ những tấm bia kỷ niệm ấy, họ có biết rằng họ đang xúc phạm đến những người đồng bào đă chết hay không? Họ đang dùng cái thứ đạo lư ǵ vậy? Thực ra, đối với người cộng sản, dùng chữ "đạo lư" th́ hơi quá đáng, v́ đó là thứ họ không có, không cần có. Với họ, chỉ có thủ đoạn và mánh khóe, cái thứ thủ đoạn của Stalin với dân Ba lan, của Hồ Chí Minh đối với nhóm Đệ tứ và với những người bị đảng cộng sản quy cho cái tội địa chủ ác ôn, của cách đối xử cực kỳ ác độc đối với đồng bào miền Nam sau 1975... Và bây giờ, hành động mới nhất, vào tháng Năm, tháng Sáu năm 2005, là vận động xóa bỏ dấu vết các bia tưởng niệm người chết trên đường trốn chạy tại các nước Đông Nam Á. Năm ngoái, đảng cộng sản Việt nam ra nghị quyết 36, kêu gọi người Việt tị nạn ở nước ngoài quên đi quá khứ, cùng hợp tác với họ để xây dựng đất nước. Nhiều người đă nh́n thấy đây như là một cử chỉ ḥa giải, kêu gọi cùng thông cảm những lỗi lầm trong quá khứ của nhau và bỏ qua hết, để cùng nhắm về một mục tiêu tốt đẹp làm cho đất nước giàu mạnh và hạnh phúc. Sau hơn nửa thế kỷ thù hận, người Việt nam nào mà chẳng mong ước điều ấy? Người Việt ở nước ngoài đă chẳng tích cực gửi tiền bạc về giúp đỡ đồng bào trong nước đó sao? Và thiếu ǵ người chỉ v́ thiện chí xây dựng đă đầu tư tài sản và trí tuệ để xây dựng công cuộc làm ăn tại Việt nam (dù rốt cuộc nhận lănh những hậu quả vô cùng đau đớn: tài sản mất hết, thân bị tù tội chỉ v́ sự tham lam và xảo trá của chính quyền trong nước, ai mà chẳng thấy nhan nhản những trường hợp ấy?) Nhưng nếu tưởng nghị quyết 36 bày tỏ sự thực tâm của những người cộng sản là lầm. Nghị quyết ấy chỉ là một mệnh lệnh theo thói quen cai trị bằng mệnh lệnh của chế độ ấy, chứ bản chất tấm ḷng của người cộng sản với đám người Việt hải ngoại th́ vẫn không có ǵ thay đổi: nghi kỵ, hiềm thù, đố kỵ, họ chỉ muốn người Việt ở nước ngoài đóng góp tiền bạc và trí tuệ cho họ, c̣n ngoài ra không bao giờ coi tập thể người này là những người đồng bào với những tâm t́nh chung, ước nguyện chung, có quyền nói chuyện ngang vai vế với họ về những vấn đề của đất nước. Họ đă biết v́ sao mà có tập thể người tị nạn Việt nam trên khắp thế giới ngày nay chứ? Họ thừa biết bằng cách nào đám người đó hiện diện ở nước ngoài chứ? Họ dư biết những nỗi đau thương mà người đi t́m tự do phải chịu chứ? Họ biết rất rơ hằng trăm ngàn đồng bào đă bỏ ḿnh ngoài biển chứ? Thế mà họ không xem tâm t́nh của người tị nạn ra cái ǵ cả, một tấm bia tưởng niệm người đă chết họ cũng không tha! T́nh nghĩa đồng bào với nhau ở đâu? Đối với họ, t́nh nghĩa đó chỉ được hiểu bằng một động tác: đóng góp đô la cho họ. Họ kêu gọi người tị nạn quên quá khứ, nhưng c̣n họ? Cái quá khứ rất gần, họ đă hành hạ dân chúng ra sao sau ngày 30.4.1975 họ có quên đâu? Họ biết rơ nửa triệu người bỏ ḿnh trên biển là do chính họ gây ra, nhưng họ không bao giờ có một cách cư xử hợp đạo lư, chỉ muốn khỏa lấp mọi chuyện bằng cách kêu gọi "quên đi" trong khi cái nguyên nhân gây ra thảm cảnh th́ họ vẫn c̣n giữ nguyên: một chế độ toàn trị bằng bạo lực và sự xảo trá. Họ vừa mang một ḷng kiêu hănh thô lỗ rằng chính họ mới là chủ nhân ông của đất nước, vừa mang một mặc cảm tội lỗi, lúc nào cũng muốn che đậy tội ác của ḿnh, lúc nào cũng mong xóa đi dấu vết tội ác ấy. Khi họ kêu gọi người tị nạn hăy quên quá khứ đi, họ muốn người tị nạn quên những tội ác của họ đă làm khiến đồng bào phải chạy trốn, nhưng về phần họ th́ họ vẫn nhớ rất rơ, và làm bất cứ động tác nào để tẩy xóa, che đậy tội ác của chính họ, dù động tác ấy xúc phạm một cách thô bạo đến tâm t́nh của người Việt ở nước ngoài. Đến thời điểm này, tại sao không đối xử với nhau một cách tử tế? Tôi nghĩ nếu chính quyền cộng sản Việt nam c̣n có t́nh đồng bào và biết tôn trọng nỗi đau thương của người tị nạn th́ nên giúp trùng tu các khu tưởng niệm, thậm chí cử một phái đoàn đến thắp một nén nhang trước các tấm bia như là một cử chỉ thiện chí, th́ hiệu quả của công việc ấy sẽ gấp trăm gấp ngàn lần cái nghị quyết 36 hách dịch và vô hồn kia. Nước Đức, sau khi chế độ Quốc xă sụp đổ, vẫn giữ lại một vài dấu vết các ḷ thiêu người mà nước này đă dùng để giết người Do thái, như một bài học ô nhục mà một chế độ chính trị của dân tộc Đức đă làm. Họ có can đảm giữ lại để làm tấm gương cho hậu thế. Sự kiện ba triệu người Việt nam đi ra sống trên khắp thế giới và nửa triệu vùi thây trong ḷng đại dương là sự kiện có một không hai trong lịch sử nước ta, không khác ǵ việc sáu triệu người Do thái bị giết trong ḷ thiêu của Đức quốc xă. Biến cố người Việt ra đi sinh sống khắp nơi trên thế giới trong thế kỷ 20 có một ư nghĩa vĩ đại về mặt lịch sử, sau những thế kỷ Nam tiến để tạo thành nước Việt nam ngày nay. Chính quyền cộng sản đă không làm ǵ để đánh dấu biến cố đó ngoài việc kêu gọi người ta hăy quên nó đi, đó là về phần của họ. Về phần người đi tị nạn và cả thế giới văn minh nữa, phải ghi lại trang sử ấy, họ đă làm nhiều cách, các thế hệ loài người mai sau sẽ biết rơ sự kiện đó trong không biết bao nhiêu tài liệu nằm trên những tượng đài, những kệ sách trong thư viện, và nhất là nằm trong ḷng con cháu của lớp người ra đi ấy, trong hay ngoài nước Việt nam. Xóa làm sao được. Cái ác làm sao thắng được lẽ thiện ở đời. Những tấm bia hiền lành thấm đẫm t́nh người của người tị nạn dựng ở Bidong, Galang đă bị những kẻ thiếu nhân tính âm mưu phá hủy đi. Nhưng họ nên nhớ rằng t́nh người mới là cái bất diệt, c̣n sự gian trá, xảo quyệt chẳng qua chỉ là những màn che đậy nhất thời, mà trong thế giới ngày nay, càng che đậy càng lộ ra cái tâm lư ti tiện và sự tội nghiệp của con thú cộng sản cuống quít trong bước đường bạo lực cuối cùng của nó. Và người cộng sản hăy đừng bao giờ quên rằng: bước đi của những người đi t́m tự do sau 1975 chính là một tiên tri và là bước hướng dẫn cho cuộc đổi mới của chính quyền cộng sản Việt nam từ giữa thập niên 1980. Cuộc trốn đi của người đi t́m tự do, sự bỏ ḿnh lớn lao của họ trên biển cả như có một lời nhắn để lại sau lưng: hăy đi theo bước của chúng tôi, Việt nam sẽ không c̣n con đường nào khác ngoài con đường đến với thế giới văn minh. Chính quyền cộng sản đă đi theo đúng lời nhắn bảo thiêng liêng ấy, đi theo đúng bước chân ấy, và quả nhiên đă t́m thấy con đường sống. Thế th́ thay v́ vội khoe khoang v́ một ít bề ngoài hào nhoáng do những công ty các nước tư bản mang lại, hăy khiêm tốn lắng nghe lời của những oan hồn trên biển, rằng Tự Do mới là ch́a khóa then chốt để mở cánh cửa Hạnh Phúc và Thịnh Vượng cho dân tộc chúng ta. Chính v́ Tự Do mà nửa triệu người đă bỏ ḿnh, lời nguyền đó sẽ linh thiêng và ứng nghiệm lắm! Sao lại thô bạo với nhau, nhất là với những người đă chết? Chính cái chết của họ đă đóng góp tích cực cho một ư hướng tinh thần chúng ta cần đi theo. Ngay cả những người lính Việt nam Cộng ḥa và Mỹ đă chết trên chiến trường Việt nam từ bốn mươi năm trước, cũng đă đóng góp phần rất quyết định cho Việt nam ngày nay. Một con cá quẫy đuôi bên này đại dương c̣n gây ảnh hưởng đến bên kia đại dương, huống chi một cuộc chiến lớn như thế há lại không bằng cách này hay cách khác, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản trên thế giới? Và thử tưởng tượng, nếu chủ nghĩa cộng sản không sụp đổ ngay nơi thành tŕ của nó là Liên xô và các nước Đông Âu, th́ liệu Trung quốc, Ba lan, Tiệp khắc... và nhất là Việt nam, có được như ngày nay? Hay là vẫn ́ ạch với tem phiếu, với khẩu hiệu, với hộ khẩu, với phân phối xếp hàng cả ngày, với các kế hoạch năm năm kế tiếp nhau mà vẫn dẫm chân hoài một chỗ?... Những lănh tụ cộng sản Việt nam bây giờ là triệu phú đô la hăy nhớ ơn các chiến sĩ chống cộng đă bỏ ḿnh trên chiến trường Việt nam thuở xưa, những thuyền nhân xấu số đă bỏ ḿnh trên đường đi t́m tự do, v́ chính những chiến đấu cho tự do đó đă làm thay đổi bộ mặt thế giới và giúp cho các "đổi mới" ở Việt nam ngày nay được phần nào thành tựu. Suy nghĩ như thế không có ǵ là ngược đời đâu, đó là kết quả hiển nhiên có tính cách nhân quả của cuộc diện thế giới, khu vực và từng nước. Trong sự ràng buộc nhân quả chằng chịt ấy mà chính quyền Việt nam vẫn cứ khư khư chỉ biết có đảng của ḿnh, và có thái độ cực kỳ chật hẹp đối với bao nhân tố khác đă xây dựng nên bộ mặt thế giới ngày hôm nay th́ quả là đáng tiếc. Hăy tôn trọng những người đă chết, nhất là những cái chết ấy đă gây một cảm hứng vô song trong công cuộc xây dựng cho con người c̣n lại trên thế giới này, là ư thức Tự Do. Không có tự do sẽ không có thịnh vượng và hạnh phúc, đó là điều chắc chắn. Hăy đi qua Bidong, Galang, đến những tượng đài tưởng niệm thuyền nhân đă bỏ ḿnh, thành tâm thắp hương tưởng niệm linh hồn của họ, đó là hành vi duy nhất ḥa giải với quá khứ và hiện tại, và mở được cửa đến một tương lai sáng sủa.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Học Sử Hôm Nay ... (Phiếm của Đào Nương – Trích báo Sài g̣n Nhỏ Orange County, Cali) Tựa đề bài viết này không phải của Đào Nương tôi mà là của một ông nhà báo thành Hồ đăng trên báo của nhà nước, báo Tuổi Trẻ, nhân ngày Nhà giáo Việt nam 21 tháng 9. Bài viết "than thở" như sau: Trong giờ học sử, thầy giáo kêu một học sinh lên hỏi: "Em hăy cho thầy biết ai đă lấy trộm nỏ thần của An Dương Vương?" Chú học tṛ xanh mặt: "Dạ, không phải em!" Thấy t́nh trạng học tập của học tṛ ḿnh đáng báo động, thầy giáo bèn t́m đến người mẹ để than thở. Bà mẹ nóng nảy phủ nhận ngay "con bà không phải là đứa ăn cắp." Thầy giáo thở dài, gởi thư mời người cha đến gặp. Ông bố nghe chuyện, giật ḿnh, năn nỉ: "Xin thầy tha lỗi, cháu lỡ dại, về nhà tôi sẽ thuyết phục cháu mang nỏ thần đến trả lại ạ!" Quá thất vọng, thầy giáo mang câu chuyện tŕnh lên "thầy" hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng giận dữ đập bàn: "Lỗi này không tha được! Tội ăn cắp là phải trị tới nơi, tới chốn!" Bài viết không chú thích nên chúng ta thừa hiểu rằng "Thầy Hiệu trưởng" thật ra lại là một anh cán, lịch sử đảng th́ nhớ, nhưng không biết ǵ về lịch sử nước nhà. Cũng trong bài báo này, những con số thống kê được đưa ra: 44% của 468 sinh viên của 9 trường đại học ở thành phố mang tên "Bác", những cựu "cháu ngoan của Bác" không biết ông Chu Văn An là ai, vua Quang Trung và ông Nguyễn Huệ là hai người khác nhau. Trong 1800 học sinh ở đây th́ 39% không biết Hùng Vương là ai, 49% không biết ông Trần Quốc Toản làm chức ǵ, Lê Lai là anh hùng chống Pháp, chống Mỹ. Theo nhà báo "đồng chí" Nguyễn Học kể th́ trong kỳ thi vừa qua tại thành phố Cà mau, khi trả lời câu hỏi thành phố Cà mau có bao nhiêu huyện, nhiều em thí sinh trung học tại trường Hồ Thị Kỷ không quên thêm vào hai huyện mới là ... huyện đoàn và huyện đội. Chưa hết. Không biết bọn ngụy "thua" lâu rồi mà ảnh hưởng của chúng sao mà sâu đậm thế: Biệt khu Hải yến – B́nh hưng do Mỹ ngụy lập ra đă từng gây ra bao nhiêu là tội ác với nhân dân Cà mau th́ các em lại trả lời rằng đó là ... khu căn cứ cách mạng. Ban Biên tập báo này kết luận rằng: "Đây là t́nh trạng đáng ngại!"
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xà Bần – Hương Vị Sau Ngày Tết
(Bài của Thảo Trần – Trích báo Saigon Nhỏ San Jose, Cali) Tết mà thiếu món xà bần là thiếu cả hương vị ngày Tếr. Xà bần là gạch vụn đá vụn trộn lẫn nhau để đổ nền nhà. Nhưng xà bần c̣n để chỉ một món ăn mà theo tôi, thật ngon, thật tuyệt vời trong mấy ngày Tết. Xa nhà lâu quá tôi không biết bây giờ ngày Tết ở quê hương, có nhà nào c̣n món xà bần không. Chắc là c̣n, nhưng hương vị, và người thưởng thức, chắc không c̣n như xưa. Vào cái thời c̣n thanh b́nh, khi tôi c̣n nhỏ, ở làng quê tôi, và như bây giờ tôi c̣n nhớ được, nhà nào nhà nấy đều cỗ bàn ê hề, để rước ông bà ăn Tết. Nhà có bao nhiêu bàn thờ th́ phải làm đủ bấy nhiêu mâm cỗ, riêng bàn thờ chính th́ ít nhất là ba mâm. Cỗ cúng th́ phải đầy đủ bảy món ... bánh tét, bánh ít, bánh chay, bánh mặn, ... cá kho thịt kho nước dừa, dưa cải, thịt luộc, thịt gà, canh xào, ... Mỗi thứ như thế là một nồi. Múc ra cúng xong, dọn cho khách khứa, con cháu trong nhà ăn uống, cao lắm chỉ hết ba mâm. Những mâm c̣n lại, do cúng rồi, không được đổ vô nồi c̣n nguyên, mà đổ chúng vô một nồi, trong đó hầm bà làng đủ thứ, đồ xào, đồ kho, thịt gà, thịt vịt, ...Trong ba ngày Tết, cho đến khi đưa ông bà đi, rồi hạ nêu, nồi này cứ mỗi ngày lại nhận thêm đồ cúng, mỗi ngày hâm đi hâm lại, và nồi đó là nồi xà bần. Ngon số một trên đời này, không có món nào ngon hơn. Tôi c̣n nhớ hồi nhỏ ở với ngoại, đứa nào phải thiệt là ngoan mới được ngoại cho ăn xà bần với cơm, đó mới đúng là hương vị ngày Tết, khi bỏ một miếng xà bần vô miệng cái vị mặn mặn vừa hơi cay cay vừa ngọt ngọt, nó thấm vào lưỡi và tan liền trong miệng v́ xà bần đă bị hâm đi hâm lại nhừ tử trong mấy ngày Tết. Ba ngày Tết, thức ăn nhiều quá đâu có ai đụng đến. Cho tới ngày đưa ông bà th́ thức ăn cũng đă cạn và nồi xà bần là món ăn chính trong các bữa ăn, có khi đến rằm tháng giêng mới hết, mà nhà nào cũng có nồi xà bần, nghèo th́ nồi nhỏ, giàu th́ nồi to, trung trung th́ nồi vừa vừa, mà mỗi nồi ở mỗi nhà là một hương vị khác nhau. Xa nhà lâu quá, mỗi khi nghĩ tới là muốn khóc, về, ừ th́ ai cũng nói nhớ th́ về, nhưng về đâu có dễ, biết bao nhiêu thứ nhiêu khê, đâu phải đơn giản ra pḥng bán vé máy bay mua vé là thấy ngay Sài g̣n. Đâu phải ai cũng về được?
Tôi nhớ nhà, tôi nhớ nồi xà bần của ngoại, và xin gởi nỗi nhớ thương này
theo mây theo gió về quê hương. Tháng giêng 12, 2005
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bánh Căn Nha Trang & Vấn Đề Tiếp Thu Văn Hóa
(Bài của Hương Cao – Trích từ liên mạng) Món bánh căn xuất xứ từ đâu??? Chắc là miệt Phan rang??? Ở đó c̣n sót lại ba làng của người Chàm. Hồi c̣n bé, đă có lần tôi thắc mắc khi thấy người Chàm bán những khuôn bánh căn ở chợ Nha trang nên hỏi mẹ: "Tại sao lại là người Chàm bán khuôn bánh căn?” Mẹ tôi nói: "Có lẽ món bánh căn xuất xứ từ dân Chàm.” Điều này làm tôi thú vị. Việt nam tiếp thu văn hóa của các nước lân bang, Việt hóa dần cho đến độ thành của ḿnh rất nhuần nhuyễn. Từ bánh căn, tôi miên man nghĩ đến chuyện trầu cau. Số là tôi rất thích coi phim Tàu, riêng phim Đài loan th́ không thích v́ khóc quá trời, năm biển đông cũng không đủ hứng nước mắt của tài tử Đài loan, nhưng có một buổi ghé mắt xem một phim th́ thấy nam tài tử đóng vai anh chàng bán cau, nhai cau bơm bẽm suốt ngày!!! Ấy chết, ḿnh tự hào về chuyện trầu cau là của ḿnh, nay ông Tàu cũng có, hóa ra ḿnh bắt chước rồi!!! Nỗi thắc mắc cứ phiền bận tâm trí cho đến một ngày đọc được bài viết là dân bản xứ Đài loan thuộc giống Indonesien, là giống dân Việt. À, có thế chứ! Không lẽ tục ăn trầu có trước thời Tàu qua đô hộ mà cũng của Tàu th́ ḿnh đích thị là Tàu rồi, c̣n đâu là giống Lạc Long anh hùng nữa. Mà như vậy th́ ḿnh đâu cần Nhâm Diên, Tích Quang dạy cày ruộng và cưới hỏi ??? V́ ḿnh đă có tục cưới hỏi từ thời Hùng vương là thời trước khi bị đô hộ mà ??? Lại thắc mắc, t́m lại Ruộng của ḿnh được gọi là ruộng Lạc thời Hùng vương, ḿnh lại biết lợi dụng nước thủy triều lên xuống để dẫn nước vào ruộng, ḿnh có trầu cau để cưới hỏi, cớ ǵ Nhâm Diên, Tích Quang lại phải dạy??? À, hóa ra dạo đó ḿnh c̣n thuộc mẫu hệ, đàn bà đem trầu cau qua nhà trai xin cưới, có lẽ các chú Tàu đă qua phụ hệ thấy ngứa mắt nên mới "dạy dỗ” lại cho đúng lễ giáo Tàu. Và cũng v́ mẫu hệ nên hai bà Trưng mới kêu gọi được toàn dân Việt đứng lên chống ngoại xâm và làm vua nước Việt. Chứ với quan niệm "đàn bà đái không qua ngọn cỏ" dễ ǵ mà người dân hy sinh mạng sống chạy theo hai bà. Trang sử oai hùng ấy khiến đàn bà nước Nam thật là hănh diện. Phải không các bạn gái, con cháu bà Trưng, bà Triệu??? Nếu Mă Viện không hủy diệt hết văn hóa Văn lang có lẽ chúng ta cũng được viết bằng chữ Lạc Việt chứ không phải chữ Tàu khó viết khó nhớ như vậy!!! Ḿnh bị xâm lăng, và xâm lăng, nên không c̣n biết cái ǵ là chính tông của ḿnh. Cái hay của dân tộc Việt là thu nhận và biến đổi để thành của ḿnh như món bánh căn chẳng hạn, tôi nghi là của Chiêm thành. Chỉ nghi thôi chứ không dám đoan quyết, việc nghiên cứu dành cho các nhà sử học và nhân chủng học, tôi không dám léo hánh đến. Chỉ mong đổi chút đề tài cho các bạn thêm phần vui hơn. Chẳng là "Mua vui cũng được một vài trống canh" . Tiện đây xin tặng các bạn bài thơ "con cóc" về vài tục của Việt nam thời Hùng vương để thấy ḿnh cũng có văn hóa trước khi bị đô hộ chứ không phải man ri mọi rợ.
Phương Nam cùng với Bắc phương,
NCT (đọc báo giùm các bạn) |